ThẦy
có thẬt là ĐẤng phẢi đẾn không?
(Mátthêu 11,2-11 – CN
III MV - A)
1.- Ngữ cảnh
Với
các chương 11–12 này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương trước, Nước Trời đến gần,
dường như không hề gặp trở ngại nào; ở đây, có điều mới xuất hiện: các câu hỏi
chính xác được đặt ra cho Đức Giêsu.
Gioan
Tẩy Giả phái các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến
không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (11,3). Phía họ, những người
Pharisêu cùng với các kinh sư (x. 12,38) đã ngỏ lời lần đầu tiên trực tiếp với
Đức Giêsu với giọng trách móc và phê phán: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều
không được phép làm ngày sa-bát” (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa
xuất hiện. Đứng trước bản thân và hoạt động của Đức Giêsu, người ta phải lấy
lập trường. Dường như Đức Giêsu có thể là “đối tượng gây vấp phạm” (11,6), còn
“thế hệ này” không sẵn sàng đón tiếp Nước Trời đang đến gần, các thành ở bờ hồ
không hoán cải (x. 11,20), phong thái của Đức Giêsu thực sự bị tranh luận (x.
cả ch.12), và người ta đã “bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu” (12,14) .
Bầu
khí ngờ vực và đặt vấn đề này là bầu khí mới so với những gì xảy ra trước đây.
Quả thật, cho tới nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra dần dần như là
Đấng Mêsia; các chặng chính được Đức Giêsu trình bày với một nội dung huấn giáo
phong phú:
1.
Như một đoạn văn tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới thiệu xuất xứ của Đức
Giêsu, con cháu vua Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ ấu, Người đã tỏ
ra là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của Israel nơi bản thân
và bằng số phận của Người.
2.
Ở ch. 3–4, Vị Tiền Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức
Giêsu: dịp này, Đức Giêsu đã đăng quang làm Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa
Cha ban chứng từ thánh hiến, đã chịu quỉ thử thách, Người đã đi loan báo Tin
Mừng về Nước Thiên Chúa.
3.
Trong các ch. 5–7, qua huấn giáo của Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền lực
của Nước Thiên Chúa và đòi hỏi phải dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho
các đám đông phải kinh ngạc và thán phục.
4.
Xuyên qua các phép lạ chữa bệnh mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như lời nói đầy
hiệu năng của Người, các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho Người
cũng như quyền lực đầy năng động của Nước Thiên Chúa.
5.
Ở ch. 10, qua bài sai ban cho Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền giáo, ta
khám phá ra rằng các sứ giả của Nước Thiên Chúa được thực sự chia sẻ uy quyền
của Đức Giêsu, do các ông được liên kết mật thiết với bản thân Người.
Xuyên qua tất cả các chương này, ta thấy danh
tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, bay sang cả các miền chung quanh (x.
4,24; 9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao nhiêu, chỉ có một vài lời chỉ trích
phát xuất từ nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc các môn đệ của ông Gioan (x. 9,14),
dưới dạng những câu hỏi lịch sự, chỉ có một phản ứng quyết liệt hơn lộ ra ở
9,34, nhưng cũng còn ngắn ngủi, để rồi chỉ được nhắc lại và triển khai ở 12,24.
Nói đúng ra, trong tất cả những chuyện này, chưa có tranh luận, và ngôn ngữ ẩn
dụ của các dụ ngôn chưa được sử dụng, ngoại trừ câu truyện về hai loại nhà kết
luận Bài Giảng trên núi (x. 7,24-27).
Tuy nhiên, nên ghi nhận phương diện đe doạ và
xung đột đã được mười chương đầu này của Tin Mừng nêu lên: ý định nham hiểm của
vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống các cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo
những bách hại (x. 5,10-12.44; và nhất là 10,16-23.38). Nhưng đấy là một sự đối
kháng mà Đức Giêsu luôn chiến thắng, hoặc là một lời Đức Giêsu kêu gọi đừng sợ
hãi, mà hãy nhận ra mối phúc của Nước Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối đầu gian
khổ. Dù sao, dường như ơn cứu độ đã được đảm bảo cho người nào đứng vững tới
cùng (x. 10,22). Do giọng điệu tha thiết của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ đối
phó với những khó khăn và trở ngại họ sẽ gặp, Bài diễn từ truyền giáo đã mở ra
một viễn tượng mới: đó là cuộc thử thách đức tin sẽ phải trải qua.
Đã đến lúc phải tự hỏi về ý nghĩa của hoạt động
của Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài: phải nghĩ gì về những “việc
Đức Giêsu làm” (11,2.19)? Phải hiểu thế nào về những “cử chỉ quyền lực” ấy
(11,20.21.23)? Thật ra đây là câu hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu: từ ngữ
“Kitô” mà Mt đã sử dụng trong ch. 1–2, đến đây mới xuất hiện lại (x.
11,2). Dường như bây giờ chúng ta đã rơi vào tình trạng lưỡng lự: ơn cứu độ vẫn
còn được trình bày như có thể đạt được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các lần từ
khước, các chống đối, các tranh luận lại nối tiếp nhau đặt Đức Giêsu thành vấn
đề. Tác giả sẽ trình bày phần Tin Mừng còn lại như câu truyện về một sự từ
khước. Chính là theo chiều hướng này mà chúng ta có thể nói đến một khúc quanh
trong diễn tiến của Tin Mừng Mátthêu.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1)
Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3);
2)
Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (11,4-6);
3)
Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15).
3.- Vài điểm chú giải
- Đấng phải đến (3): dịch sát ho
erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ đến lời rao giảng trước đây của
Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho opisô mou erchomenos)”
(3,11). Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa đến với sứ mạnh [quang lâm hùng
dũng], tay nắm trọn chủ quyền” (Is
40,10). Do đó, Đấng Mêsia cũng được gọi là “Đấng được chờ đợi”, “Đấng sẽ đến”,
“Đấng Thẩm phán” (x. Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với việc người
tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy sân lúa
(3,12). Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban một phép rửa giúp bày
tỏ lòng sám hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần
và trong lửa để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa
không hề tắt mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml 3,2-3).
- phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp phạm”, skandalon,
là “cái bẫy đặt trên đường; chướng ngại vật làm cho người ta té ngã”; và nghĩa
bóng là tất cả những gì làm cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn giáo.
Đức Giêsu tiên liệu rằng câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất vọng,
bởi vì quan niệm của ông về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang thực
hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng của
Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt
16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Gioan
Tẩy Giả đã loan báo là đến sau ông, sẽ có một người mạnh hơn ông và vượt
xa ông về phẩm cách. Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa
với vỏ trấu ra (3,11t; x. Is 40,10).
Bây giờ Vị Tẩy Giả đang
ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của ông, vua
Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là đạo đức,
ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết những
tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét.
* Mở đầu
cuộc tranh luận Kitô học (2-3)
Gioan nghe nói đến
những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có
thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của
Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội,
ông không đáng được Đức Giêsu dùng quyền
lực Người mà giải thoát sao? Người có thật đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu
chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải nói năng và hành động cách
mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?
Khởi đi từ hoàn cảnh cá
nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan nêu ra
câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có thể tín
nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến gặp Đức
Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn.
* Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người
(4-6)
Đức Giêsu không cung
cấp một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức
Giêsu đưa Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải
diễn dịch ra được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã
thúc đẩy Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho
thầy về những việc Đức Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những
điều mắt thấy tai nghe”) và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến
các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).
Đức Giêsu khẳng định
rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi
này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động của
Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân
sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên không
được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài người:
Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các
môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện
rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung kết
được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những người
công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những người
sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi sự kiện
Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt đầu công
việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung
tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và nhân ái, sứ
điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả mọi người
được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình
như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng về niềm vinh
phúc ấy. Trước tiên Người không đến như một người đấu tranh chống lại
bạo lực và như thẩm phán nghiêm khắc.
Mỗi người phải tự nhận
định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp chúng
ta ý thức về điểm này: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người
không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết phục của những sự kiện
hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta đón nhận hoặc từ
khước, cho người ta tin hoặc không tin.
* Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (7-11)
Sau khi đã trả lời câu
hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản thân của
Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống không ngạo
mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý như
một cây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là mềm
mỏng. Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là một
ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn hơn
là một ngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời
hứa, các vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và
mang theo ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao
trọng hơn tất cả các vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn
bị trực tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị
cho dân chúng đón tiếp Người (11,14; x. Ml
3,23; H c 48,10).
Với cách đánh giá Vị
Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu một lần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của
ông. Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến.
Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức
Chúa đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là
theo cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người
cao trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải
nghiệm sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ.
Sự vĩ đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con
người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự
vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và
người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có một ý nghĩa duy nhất.
+ Kết luận
Qua
các môn đệ của Vị Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là
Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn
trung thành với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải
thích sai lạc lời Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền,
theo lòng dạ hẹp hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại
cách chúng ta nhìn lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng
ta, nhưng đúng theo chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay,
người môn đệ nhận ra rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối
với con người hôm nay, thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu
toàn được sứ mạng nếu dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta
loan báo.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, nhiều Kitô hữu vẫn đang mơ một ơn
cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc Đức Giêsu chữa bệnh và
nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cho thấy rằng Người không phải
là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là một vị Mêsia ân cần và từ
bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những kẻ gian ác, Người lại
ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi, Người soi chiếu, Người
trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài người để chỉ làm điều
thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những người khó chịu? Ngay
chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình yêu của
Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói: “Phúc
thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính là “cớ vấp phạm” do các
Mối Phúc gây ra.
2. Con đường tất cả các môn đệ phải theo là
nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng đắn, biết nhận ra đó là các công
trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức tin, khởi đi từ những điều thấy được
và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con đường đưa từ bóng tối
đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé
bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con
người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế,
đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực tại.
3. Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ
chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức
Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ
trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta phải thấy thực sự Người là ai và
Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với niềm vui và tri ân, cho dù chúng
ta phải sửa chữa và bỏ đi một vài ý tưởng hoặc sự chờ đợi sai lạc nào
đó.
4. Là những con người sống ở thời đại “cuối
cùng”, chúng ta “có phúc” hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có
biết trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng những ân huệ đó mà xây dựng cuộc
sống hạnh phúc cho người khác chăng?
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm