CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A
Is 7,10-14 ; Rm 1,1-7 ; Mt 1,18-24
SỐNG CÔNG CHÍNH VÀ TOÀN TÂM PHỤNG
SỰ CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 1,18-24.
(18) Sau đây là gốc tích
Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a Mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se.
Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng
Chúa Thánh Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không
muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. (20) Ông đang
toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông
rằng: “Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ
ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. (21)
Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giê-su, vì chính
Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. (22) Tất cả sự việc
này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn
sứ: (23) “Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người
ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta”. (24) Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và
đón vợ về nhà. (25) Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một
con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của thánh Giu-se thể
hiện qua cách ứng xử trước việc thụ thai lạ lùng của Đức Ma-ri-a. Tin
Mừng cũng cho biết thái độ của Đức Ma-ri-a là toàn tâm toàn ý cộng tác vào chương
trinh cứu độ của Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 18-19: + Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của Đức Ma-ri-a, là
Mẹ sinh ra Đức Giê-su. + Đã thành hôn với ông Giu-se:
Theo phong tục Do thái lễ cưới gồm hai giai đoạn là lễ đính hôn và lễ cưới rước
dâu. Lễ đính hôn chính là thành hôn về mặt pháp lý và được cử hành trước lễ cưới
cả năm trời. Thường thì hai người nam nữ sau khi đính hôn vẫn chưa ăn ở
với nhau. Nhưng nếu lỡ có con trong thời gian này thì đứa con vẫn được
công nhận là con chính thức của hai vợ chồng. Câu này cho thấy Giu-se và Ma-ri-a
đã là vợ chồng hợp pháp sau lễ đính hôn. + Nhưng trước khi hai ông bà
về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần:
Việc thụ thai của Đức Ma-ri-a không phải do Giu-se. Tuy nhiên về mặt xã
hội, trẻ Giê-su vẫn được thiên hạ coi là con của bác thợ mộc Giu-se (x. Mt
13,55), dù thực sự Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23). +
Giu-se là người công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật
Chúa cách trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính với tha nhân. Sự
công chính của Giu-se ở đây không phải là công chính theo Luật, vì
Giu-se đã không làm theo Luật dạy là phải làm tờ chứng thư ly dị và
trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó sự công chính của Giu-se hệ tại ba điểm
này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên Chúa thực hiện nơi Ma-ri-a.
Hai là Giu-se không dám cưới một người đã được Thiên Chúa chọn để dành
riêng làm việc của Ngài. Ba là Giu-se không dám nhận làm cha một hài nhi
Thần Linh khi chưa nhận được chỉ thị từ nơi Thiên Chúa. +
Không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo:
Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ
người bạn mà ông biết là rất trong sạch. Đàng khác vì là người công
chính, Giu-se không dám dành cho mình người phụ nữ mà Thiên Chúa đã
chọn. Ông phải làm thế nào để vừa bảo toàn được danh dự cho Ma-ri-a,
lại vừa giữ được sự công minh chính trực ? Cuối cùng ông quyết định âm
thầm bỏ Ma-ri-a để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng giữ được sự
công minh chính trực trước mặt Thiên Chúa.
- C 20-21: + Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa
kịp thi hành ý định thì Thiên Chúa đã sai thiên thần đến trấn an và
trao sứ mạng cho ông. + Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít:
Giu-se được trao sứ mạng làm cha để trẻ Giê-su thuộc về dòng dõi
Đa-vít theo pháp luật, hầu ứng nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người” (x. Lc 1,32), và lời tuyên
sấm của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng Thiên Sai (x. Is 9,6; 2 Sm 12,16).
+
Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do
quyền năng Chúa Thánh Thần: Sứ thần đánh tan sự e ngại của
Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông mau tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về
làm vợ mình vì việc thụ thai là do quyền năng của Thiên Chúa. + Ông
phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Đặt tên cho con trẻ là thừa
nhận mình là cha của đứa trẻ về pháp luật. Tên Giê-su hay Giô-suê, Giê-su-a
có nghĩa là “Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là tên riêng của nhiều
người khác trước đó (x. Xh 24,13; Nkm 7,7). + Vì chính Người sẽ cứu dân
Người khỏi tội lỗi của họ: Sứ mạng của con trẻ là cứu dân
khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết (x. Tv 130,8), khác
với quan niệm cứu thế trần tục mà dân Do thái đang mong đợi.
- C 22-23: + Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai: Đây là lời tuyên sấm của I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính
siêu phàm của Đấng Thiên Sai. Người do một bà mẹ đồng trinh sinh ra. Thực
ra mẫu tính đồng trinh của Đức Ma-ri-a nói đây
không nhấn mạnh về thể xác cho bằng để chứng minh thần tính và nhân tính của
Đức Giê-su+ Em-ma-nu-en: nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tên
gọi này bao hàm sứ mạng của Đấng Thiên Sai: Nhờ Đức Giê-su mà Thiên
Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu độ họ. Tin mừng Mát-thêu
cũng kết thúc bằng lời hứa của Đức Giê-su: “Và đây, Thầy ở cùng anh
em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
- C 24-25: Sau khi được sứ thần báo mộng, Giu-se không còn ngần ngại.
Ông lập tức tổ chức lễ cưới rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mình
như lệnh sứ thần truyền. + Ông không ăn ở với bà: Sở dĩ
ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mà không ăn ở với bà như vợ
chồng, vì ông tôn trọng lời khấn trọn đời đồng trinh của Ma-ri-a khi thưa
“Xin Vâng” với sứ thần để trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế (x. Lc 1,31.38). + Cho
đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su:
Giu-se đã vâng lời sứ thần khi đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
4. CÂU HỎI:
Một số người Tin Lành đã
dựa vào chữ “cho đến khi” trong câu này để khẳng định: Ma-ri-a chỉ
đồng trinh trước khi sinh hài nhi Giê-su như lời ngôn sứ I-sai-a. rồi sau
khi sinh, bà lại sống đời làm vợ của ông Giu-se theo đúng nghĩa vợ
chồng, nghĩa là có ăn ở với nhau và đã sinh thêm nhiều con trai con
gái khác như Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55). Ngoài ra, Tin Mừng
Lu-ca cũng có câu: “Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7).
*GIẢI ĐÁP:
- Chữ “Cho đến khi” ở
đây không có nghĩa là Giu-se đã không ăn ở với Ma-ri-a cho đến khi bà
sinh con, rồi sau đó ăn ở như vợ chồng như các đôi vợ chồng khác. Khi viết
câu này, tác giả Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh tới sự kiện Giu-se đã
không can thiệp gì vào việc Ma-ri-a sinh con, đúng như lời sấm của ngôn
sứ I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai (x. Is 7,14).
Mát-thêu không lưu tâm tới việc hai ông bà có ăn ở với nhau như vợ
chồng hay không sau khi bà sinh con, vì câu Tin Mừng chỉ viết: “Ông không
ăn ở với bà, cho đến khi sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ
là Giê-su” (c. 25).
- Về chữ “con trai đầu lòng”
(Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc lại khoản luật trong Xuất hành về việc thánh
hiến con trai đầu lòng cho Đức Chúa của người và thú vật (x. Xh 13,2.12.15)
sắp được áp dụng cho trẻ Giê-su (x. Lc 2,23). Do đó “con trai đầu lòng” ở
đây chỉ có ý nói là “đứa con thứ nhất, đứa con sinh ra đầu tiên” (primo
genitus) chứ không ám chỉ còn có các con khác sẽ sinh ra sau đó.
- Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn lời một người nọ nói với
Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, có mẹ
và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy”
(Mt 12,47). Câu này tương tự câu nhận định của dân làng Na-da-rét về
Đức Giê-su: “Anh em của ông không là các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon
và Giu-đa sao ? Và chị em của ông không phải là bà con lối xóm với
chúng ta sao ?” (Mt 13,55-56; Mc 6,3). Đây là những người anh em bà con nói
chung chứ không hàm ý rõ ràng đó có phải là anh chị em ruột hay không. Cuối
cùng sách Công Vụ Tông Đồ cũng viết: “Tất cả các ông đều đồng tâm
nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và
với các anh em của Đức Giê-su” (Cv 1,14). Anh em nói đây chỉ là bà
con họ nội của Đức Giê-su về phía cha nuôi là thánh Giu-se.
- Bằng chứng rõ nhất chứng minh Đức Giê-su là con trai duy
nhất của Đức Ma-ri-a là trước khi chết, Đức Giê-su đã trối Mẹ Ma-ri-a
làm mẹ của môn đồ Gio-an và trối Gio-an làm con của Mẹ Người. Và “Kể
từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Nếu ngoài
Đức Giê-su còn có nhiều anh chị em khác nữa thì Đức Giê-su chắc chắn đã
không trối trăn như vậy và môn đệ Gio-an cũng không thể rước Đức Ma-ri-a
về nhà mình phụng dưỡng thay cho Thầy Giê-su được.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Giu-se
chồng bà là người công chính (Mt 1,19). Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm
như sứ thần Chúa dạy (Mt 1,24).
2. CÂU CHUYỆN: MỘT HÀNH
ĐỘNG KHIÊM TỐN VÀ TRUNG THỰC
Khi vụ OÁT-TƠ GHẾT (Water Gate) xảy ra, thì Tổng Thống
NÍCH-SƠN (Nixon) vốn được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm và đánh giá cao,
đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn thắng cử
mà Ních-sơn tuy đã biết nhưng vẫn làm ngơ cho thuộc hạ tổ chức nghe
lén điện thoại của đảng đối lập. Bây giờ bị họ phát hiện và ghép
vào tội nghe lén, một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ. Ông mất ăn
mất ngủ trong nhiều ngày để tìm lối thoát trong danh dự. Thế rồi
một ngày nọ, sau khi làm việc ở văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về nhà,
Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng riêng. Bỗng ông nhìn thấy
cuốn Thánh Kinh đang nằm trên bàn làm việc. Ông đã cầm lấy mở ra và
đọc được câu Lời Chúa sau: “Sự thật sẽ giải thoát các ngươi”. Về sau
ông cho biết: Chính câu Lời Chúa đó đã nhắc nhở ông phải trung thực
trong hành động. Thế là ông mau chóng quyết định dứt khoát. Mấy ngày
sau đó, người ta thấy ông xuất hiện trên truyền hình phát đi toàn
nước Mỹ lời nhận lỗi và xin tha thứ. Ông cũng chính thức xin từ chức
Tổng Thống, một chức vụ đầy quyền lực và vinh quang mà nhiều chính
khách luôn mơ ước. Đây là một hành động được đánh giá là can đảm và
có một không hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính nhờ sự can đảm trung
thực và khiêm tốn nhận lỗi đó mà dân chúng đã thông cảm và kính
phục ông như trước.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay mời gọi
các tín hữu chúng ta dọn tâm hồn đón nhận ơn cứu độ của Đức Giê-su bằng việc
noi gương thánh cả Giu-se và Trinh Nữ Ma-ri-a như sau:
1) Noi gương công chính của
thánh Giu-se: Sự công chính của Giu-se được Tin Mừng
diễn tả như sau: “Ông Giu-se chồng bà là người công chính và không muốn
tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Vậy tại sao Giu-se
được khen là người công chính? Trong những ngày chuẩn bị đón mừng lễ Giáng
Sinh, chúng ta phải sống thế nào để noi gương công chính của thánh Giu-se?
a) Công chính là ứng xử công
bình ngay chính: Trước sự kiện Ma-ri-a tuy đã thành hôn
nhưng chưa về chung sông mà đã có thai nên chắc không phải con của mình, Giu-se
đã suy đi nghĩ lại trong lòng và đã bình tĩnh chọn lối ứng xử công bình ngay chính
như sau: Ông “không tố cáo bà” tội ngoại tình vì không dám xét đoán ý
trái cho Ma-ri-a, một người mà ông biết rõ rất mực thánh thiện. Nhưng đàng khác,
ông cũng không thể tổ chức lễ rước dâu để đón Ma-ri-a về nhà làm vợ và nhắm mắt
thừa nhận bào thai Ma-ri-a đang cưu mang là con mình vì không đúng sự thật
và cũng vì chưa nhận được chỉ thị nào từ nơi Thiên Chúa. Cuối cùng Giu-se đã
chọn giải pháp “âm thầm lìa bỏ” bà để vừa tôn trọng sự thật lại vừa bào
toàn danh dự cho Ma-ri-a, tránh cho bà khỏi bị kết tội cách oan ức trước mặt
người đời.
b) Công chính cũng là vâng theo
thánh ý Thiên Chúa: Giu-se còn thể hiền đức công chính qua
thái độ luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Khi được sứ thần hiện ra báo mộng và
cho biết ý Chúa muốn, Giu-se đã thức dậy và làm theo ý Chúa như sau: Một là tổ
chức lễ rước dâu để “đón vợ về nhà”: Để
làm được điều này, ông phải làm chủ tính tự ái và can đảm bỏ ngoài tai các dư
luận bất lợi chung quanh. Hai là “Ông không ăn ở với bà”: Điều này
cho thấy bản lãnh và sức mạnh tinh thần cao cả của ông, để có thể tôn trọng lời
khấn hứa trọn đời đồng trinh của Đức Ma-ri-a. Ba là “Cho đến khi bà sinh một con
trai, ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su”: Đặt tên là xác nhận tư
cách làm cha của Hài nhi Cứu Thế về mặt luật pháp.
c) Học tập gương công chính của
thánh Giu-se: Như vậy, cách ứng xử của thánh Giu-se nói
trên cho thấy ngài là một người công chính vì đã dành cho Đức Ma-ria một tình
yêu chân thành, có lòng khoan dung nhân hậu, tự chủ mực thước, bản lĩnh và có lập
trường vững chắc… Qua đó cho thấy Giu-se là một người công chính, xứng đáng là
cha nuôi của Hài nhi Cứu Thế Giê-su và là bạn trăm năm của Ðức Ma-ri-a, đồng
thời nêu gương thánh thiện cho các tín hữu chúng ta hôm nay. Trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta cần tránh thái độ hồ đồ, hay xét đoán ý trái cho tha nhân theo
thiên kiến chủ quan “suy bụng ta ra bụng người”. Chúng ta cũng cần ứng xử bình
tĩnh tự chủ trước mọi tinh huống bất ngờ, luôn phản ứng theo cách khôn ngoan vị
tha và trung thực, luôn tìm kiêm thánh ý Thiên Chúa bằng cách tự hỏi: “Nếu Chúa
Giê-su ở trong hoàn cảnh của tôi bây giờ thì Người sẽ làm gì?” rồi làm theo lời
Chúa dạy để ngày một trở nên công chính thánh thiện noi gương thánh Giu-se.
2) Noi gương đức đồng trinh về tâm hồn như Trinh nữ Ma-ri-a: Tin
Mừng hôm nay không những đề cao sự công chính của thánh Giu-se mà còn đề cập
đến việc thụ thai kỳ diệu của Trinh Nữ Ma-ri-a do quyền năng Thánh Thần. Thông
thường, nói tới sự đồng trinh của Ðức Ma-ri-a, người ta thường chỉ nghĩ tới đồng
trinh về thể xác, mà ít nghĩ tới đức đồng trinh về tâm hồn của ngài. Thực ra cả
hai mặt của đức đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nếu chỉ đồng trinh
về thể xác mà thiếu đồng trinh tâm hồn thì sự đồng trinh ấy cũng không có giá
trị bao nhiêu! Chính sự đồng trinh tâm hồn nơi Ðức Ma-ri-a mới quan trọng và nêu
gương cho chúng ta hôm nay.
Đức Ma-ri-a đồng trinh trong tâm hồn biểu lộ qua việc Mẹ luôn
quy hướng về Thiên Chúa và toàn tâm toàn ý phụng sự Chúa. Khi thưa Xin Vâng với
sứ thần, Trinh nữ Ma-ri-a đã như một nữ tu khấn trọn: tuyên khấn thuộc trọn về
Chúa. Qua lời khấn đó Mẹ đã tự hủy để toàn
tâm toàn ý thuộc về Thiên Chúa và sống chết cho Ngài như Đức Giê-su nói: “Tôi
tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai
tôi” (Ga 6,38), hoặc như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi,
mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Khi thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây
là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38), Đức
Ma-ri-a đã chứng tỏ đức đông trinh tâm hồn và trở thành gương mẫu cho các tín
hữu hôm nay. Mọi tín hữu kể cả những người sống bậc hôn nhân gia đình đều có
thể và được mời gọi sống đức đồng trinh trong tâm hồn, nghĩa là trọn vẹn phụng sự Thiên Chúa noi gương Mẹ Ma-ri-a.
3) “Em-ma-nu-en”- “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”: Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay cũng đề cập đến danh hiệu
của Đức Giê-su đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó bảy trăm năm: “Này
đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ
là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." (Mt
18,23). Em-ma-nu-en là danh hiệu cho thấy ý Thiên Chúa muốn ở với loài người
mọi nơi mọi lúc như Đức Giê-su đã xác nhận trước khi lên trời: “Và đây Thầy ở
cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Ngày nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục ở cùng chúng ta bằng nhiều
cách như sau:
1- Khi Hội Thánh công bố Lời Chúa trong phụng vụ: Bấy giờ chính Đức Giê-su hiện diện để nói với chúng
ta qua các vị chủ chăn: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10,16).
2- Khi cộng đoàn hội họp nhau nhân danh Đức Giê-su trong các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần hằng tháng thì
có Người hiện diện để dạy dỗ: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì
có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
3- Khi chúng ta yêu mến Chúa Giê-su và biểu lộ bằng việc lằng nghe
và vâng giữ lời Người thì Ba Ngôi Thiên
Chúa sẽ đến ngự trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của
Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga
14,23).
4- Khi chúng ta cử hành
thánh lễ và rước lễ sốt sắng là chúng ta được kết hiệp mật thiết với Chúa như
Người dạy: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại
trong người ấy” (Ga 6,56). “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy
và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có
Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
5- Khi chúng ta phục vụ những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi
là chúng ta đã phục vụ chính Chúa Giê-su đang hiện thân nơi họ như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần
các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Tóm lại: Thiên Chúa muốn ở cùng
con cái loài người chúng ta mọi ngày cho đến tận thế qua Đấng Em-ma-nu-en
là Chúa Giê-su. Tuy nhiên hiện nay nhiều người vẫn đang từ chối đón nhận Người như
Tin Mừng Gio-an đã viết: “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà
có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà
chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11). Vậy trong những ngày này chúng ta sẽ làm gi
để gặp gỡ tâm sự với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và phục vụ Người nơi những người
nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi?
4. THẢO LUẬN: 1) Trong
những ngày Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để trở thành một
người công bình ngay chính noi gương thánh cả Giu-se ? 2) Bạn sẽ làm gì cụ
thể để noi gương Trinh Nữ Ma-ri-a toàn tâm toàn ý phụng sự Tin Mừng Nước Thiên
Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết hy sinh quên mình
để lo công việc của Chúa như thánh Giu-se hôm nay. Xin cho chúng con luôn
sẵn sàng làm theo ý Chúa như ngài. Ước gì mỗi ngày con tập bỏ đi
một sở thích không cần thiết, bỏ qua một lời nói đụng chạm đến tha
nhân. Ước gì chúng con nhìn thấy Chúa đang ở trong những người đau
khổ nghèo hèn chung quanh để ân cần an ủi phục vụ họ, hầu sau này
chúng con đáng được Chúa đón về quê trời hưởng hạnh phúc muôn đời
như thánh Giu-se khi xưa.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng tận hiến cuộc đời để
phục vụ Thiên Chúa và tha nhân noi gương đức đồng trinh trong tâm hồn của Trinh
Nữ Ma-ri-a. Trong những giờ phút đen tối của cuộc đời, khi bị người
thân hiểu lầm, bị người chung quanh nói xấu và xa lánh mà không thể
tự giải oan, xin giúp chúng con biết bình tĩnh cậy trông và phó thác mọi
sự trong tay Chúa quan phòng noi gương Mẹ khi xưa. Chúng con tin rằng Chúa
sẽ kịp thời giải oan và còn “biến sự dữ ra sự lành” để giúp chúng
con được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM