CUỘc
GẶP GỠ bẤt NgỜ
(Gioan 4,5-42 – CN III MC - A)
1.-
Ngữ cảnh
Trong
cuộc chuyện trò với Nicôđêmô, tác giả Gioan đã mô tả cuộc gặp gỡ của Đức
Giêsu với một đại diện của giai cấp cầm quyền Do Thái. Hoạt cảnh tiếp
theo có nội dung là cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với một người phụ nữ
Samari. Người Do Thái và người Samari sống những tương quan căng thẳng. Người
Samari coi mình là hậu duệ của các tổ phụ (x. Ga 4,12.20) và là số sót
của Israel, vì Bắc quốc đã bị người Átsua tiêu diệt vào năm 722 tCN. Thiên Chúa
của họ là Đức Chúa (Yhwh), là Thiên
Chúa của Israel. Họ chỉ chấp nhận năm cuốn sách của Môsê (= Ngũ Thư).
Người Do Thái Giêrusalem coi họ như là một dân tộc hỗn hợp bán ngoại
giáo (x. 2 V 17,24-41), nên đã cấm họ không được tham gia vào việc tái
thiết Đền Thờ sau Lưu đày (x. Er 4,1-24), và lại còn ghét họ thậm tệ mà
coi họ như là dân ngu ngốc sống tại Sikhem (Hc 50,26).
Đức
Giêsu không để mình bị ảnh hưởng bởi những kiểu đánh giá như thế. Người đã đón
tiếp vị đại diện của Thượng Hội Đồng đã lén đến gặp Người ban đêm như đi gặp
một vị tôn sư. Bây giờ Người ngỏ lời với một phụ nữ Samari, có lối sống
dường như nước đôi (x. 4,17-18), mà Người tình cờ gặp lúc giữa trưa. Trong cả
hai trường hợp, Đức Giêsu đều ý thức Người chu toàn nhiệm vụ Chúa Cha giao phó
(x. 4,34); trong cả hai trường hợp, Người đều muốn chỉ cho thấy con đường đưa
tới sự sống.
2.-
Bố cục
Bản văn có thể được chia thành ba
phần:
1) Mở
(4,1-3);
2)
Cuộc gặp gỡ với người phụ nữ (4,4-38):
a)
Khung cảnh và các nhân vật (cc. 4-6),
b)
Cuộc đối thoại với người phụ nữ (cc. 7-26):
- Lời
xin nước và ân ban nước hằng sống (cc. 7-15),
- Mạc
khải về phụng tự chân thật (cc. 16-26),
+ Các
người chồng (cc. 16-18),
+
“Nếu ông là một ngôn sứ” (c. 19),
+ Nền
phụng tự mới (cc. 20-26: 20-24; 25-26),
c)
Đối thoại với các môn đệ (cc. 27-38),
3)
Gặp gỡ với dân Samari (4,39-42).
3.-
Vài điểm chú giải
- Người
phải băng qua (4): Edei (thì vị hoàn của dei), “phải”, diễn
tả một điều nằm trong ý muốn hoặc chương trình của Thiên Chúa.
- Xykha
… Giacóp (5): Đa số các thủ bản chép là “Xykha” (Sychar).
Trong thực tế, trong miền Samari, không có thành Xykha, mà chỉ có Sêkhem
(Shechem) thôi. Có lẽ chữ Shechem đã bị đọc lầm thành Sychar
do vần ar trong Samari. Về liên hệ giữa Giacóp và Shechem, xin đọc St
33,18; 48,22; Gs 24,32.
- Người
Do Thái ... người Samari (9): Người Samari là con cháu của hai
nhóm: 1) Những người Israel không phải đi lưu đày khi Vương quốc phía Bắc sụp
đổ vào năm 722 tCN. 2) Những người thực dân xứ Babylon và Mêđia do các đoàn
quân xâm lăng Átsua đưa vào (x. 2 V 17,24tt).
Có
một sự đối lập về thần học giữa những người Do Thái phía Bắc này và người Do
Thái phía Nam, bởi vì người Samari không chịu thờ phượng Thiên Chúa tại
Giêrusalem. Tình trạng này thêm trầm trọng vì người Samari đã gây khó khăn cho
người Do Thái hồi hương trong việc tái thiết Đền Thờ Giêrusalem, rồi đến thế kỷ
ii tCN, người Samari lại giúp các
vua Syri trong các cuộc chiến chống người Do Thái. Vào năm 128 tCN, thượng tế
Do Thái đã đốt Đền Thờ Samari trên núi Garidim. Đối với người Do Thái, dân Samari
là dân ô uế.
-
Người ấy ban cho chị nước hằng sống... Vậy Người lấy đâu ra nước hằng sống (10-11):
Trong Ga, chúng ta thường gặp tình trạng các người đối thoại với Đức
Giêsu hiểu lầm những công thức Người dùng, ví dụ ở đây, hai công thức “nước
hằng sống” trên môi Đức Giêsu và trên môi người phụ nữ không cùng một ý nghĩa.
Tác giả dùng kiểu viết đó để trình bày mạc khải của Đức Giêsu về bản thân
Người.
- Giếng
(cc. 6.11): Trong c. 6, “cái giếng” là pêgê (HL), trong c. 11, “cái
giếng” là phrear (HL). Trong bản Cựu Ước Hy Lạp (= Bản LXX), pêgê
và phrear có nghĩa gần như nhau, nhưng phrear thì gần với nghĩa
là “giếng nước”, còn pêgê thì gần với nghĩa là “mạch/suối nước”. Ý nghĩa
là: Lúc đầu, khi nói về nước tự nhiên của giếng Giacóp, tác giả chưa phân biệt;
bây giờ, khi câu chuyện chuyển sang đề tài nước hằng sống của Đức Giêsu, tác
giả mới phân biệt: Đức Giêsu bây giờ là mạch nước (pêgê; Người sẽ chính
thức tuyên bố như thế ở c. 14), còn giếng Giacóp chỉ là một “cái giếng” thôi (phrear).
-
Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp (12): Đây là một ví dụ về nét
hài hước trong Ga: các nhân vật vô tình nói ra sự thật về Đức
Giêsu.
-
Thưa Ngài (cc. 11.15.19): Ba lần, bản văn Hy Lạp cho thấy người phụ nữ gọi
Đức Giêsu là Kyrios (sir, lord; seigneur). Cùng một
kiểu xưng hô, nhưng chúng ta hiểu là có một sự chuyển biến về ý nghĩa vì người
phụ nữ thưa với thái độ càng lúc càng tôn kính hơn.
- Núi
này (21): x. Đnl 27,4. Đây là núi Garidim. Trong Bản Ngũ
Thư Samari, ở Đnl 27,4, chúng ta đọc được huấn thị ban cho Giôsuê là
dựng một thánh điện trên núi Garidim, núi thánh của người Samari, chứ không
phải trên núi Êvan. Cụm từ “Núi Êvan” rất có thể đã được sửa lại trong bản văn
Híp-ri do chủ trương chống Samari.
-
Thần khí và sự thật (24): tức là Thánh Thần và Đức Giêsu (là sự thật).
-
Đấng ấy chính là tôi (26): Đây là công thức bằng tiếng Hy Lạp egô eimi (I
am; Je suis). Công thức này là chính danh xưng Thiên Chúa tỏ cho
Môsê. Tác giả muốn ngầm giới thiệu thần tính của Đức Giêsu.
4.-
Ýnghĩa của bản văn
Bản
văn được bố cục thành những “xen” qua đó Đức Giêsu đối thoại với người phụ nữ
và các môn đệ để đưa họ đến chỗ đón nhận những mạc khải chính yếu về bản thân
Người.
* Mở
(1-3)
Chương
4 của TM Ga mở đầu bằng một đoạn văn tóm tắt có vai trò “làm cầu” nối
[vì liên kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42. Đoạn Ga 4,1-4 này
thông tin cho chúng ta về Đức Giêsu và các môn đệ Người, và về phép rửa mà
Người đã làm. Hoạt động này của Đức Giêsu và nhóm của Người dường như diễn tiến
song song với hoạt động của Gioan và các môn đệ ông.
Các
câu 1-2 nói với chúng ta một lần nữa rằng Đức Giêsu đã làm phép rửa cùng với
các môn đệ Người (x. Ga 3,22), rồi nhờ một mệnh đề xen vào giữa, chúng
ta biết rằng chính các môn đệ đã làm phép rửa, đồng thời, bản văn cho biết là
Đức Giêsu cũng biết việc ấy.
Sang
c. 3, bản văn xác định rằng Đức Giêsu bỏ miền Giuđê, mà trở lại miền
Galilê.
*
Cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samari (4-42)
a)
Khung cảnh và các nhân vật (cc. 4-6),
Để
trở lại miền Galilê, Đức Giêsu phải băng qua miền Samari. Không phải là
Đức Giêsu và các môn đệ không còn cách nào khác ngoài cách băng qua Samari, một
miền đất nổi tiếng là không hiếu khách (x. Lc 9,51-56). Sự bó buộc này
(“phải”, edei) mang tính thần học và thiêng liêng, vì thuộc về chương
trình của Thiên Chúa, sẽ tạo cơ hội cho cuộc gặp gỡ.
Đến
đây chúng ta được giới thiệu khung cảnh của cuộc gặp gỡ: bên cạnh giếng Giacóp,
trong thửa đất mà Giacóp đã cho con là Giuse. Với chi tiết này, tác giả đưa ta
trở lại với bài anh hùng ca là lịch sử các tổ phụ và đặc biệt của tổ phụ Giacóp.
Tác giả TM IV đã đối chiếu Đức Giêsu với Giacóp trong giai thoại
Nathanaen, khi ngài nói đến các thiên thần lên xuống trên Con Người, tức là gợi
đến thị kiến của Giacóp. Thế rồi truyện Giacóp lại được đặt liên kết với truyện
Giuse, từ nơi ông mọi phúc lành đến với nhà Israel. Cả câu “Người nói gì, các
anh cứ việc làm theo” được Đức Maria nói ở Cana (Ga 2,5b) cũng liên kết
với truyện Giuse. Vậy tác giả muốn liên kết Đức Giêsu cả với cuộc đời Giacóp
lẫn cuộc đời Giuse và với những gì làm nên ý nghĩa của vai trò Giuse trong lịch
sử Israel. Đức Giêsu là Đấng ban lương thực, Đấng cho người đói ăn no, và vì
đói luôn đi với khát, Người cũng là Đấng giải khát, như đã xảy ra trước đây với
Giacóp rồi với Giuse. Phải chăng ở đây chúng ta còn gặp lại đề tài những cuộc
hôn nhân phát sinh từ bên một bờ giếng?
Và
hai nhân vật chính là Đức Giêsu và người phụ nữ Samari xuất hiện, trong khi các
môn đệ đã đi vào thành mua thức ăn.
Đức
Giêsu đến ngồi ngay xuống bờ giếng, vì mệt mỏi. TM IV nhắc đến sự mệt
mỏi của Đức Giêsu (khác với quan niệm của ảo thân thuyết hay của phái ngộ đạo).
Người không phải chỉ là Thiên Chúa, mà cũng còn là một người thật, và vì thế,
đôi lúc Người cảm thấy mệt nhọc. Xa hơn một chút, nhân tính Người còn được nêu
bật thêm một lần nữa khi tác giả viết rằng Người cảm thấy sức nóng nực của lúc
giữa trưa và cần uống nước (x. cc. 6 và 7). Nhu cầu này khiến Người xin nước
với người nào xuất hiện đầu tiên, và đây là một phụ nữ Samari (Ga
4,7-15), bà này có lẽ vẫn quen đi kín nước tại giếng này.
b)
Cuộc đối thoại với người phụ nữ (cc. 7-26)
Người
phụ nữ vừa đến nơi, liền xảy ra cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và bà ấy, Trong
mẩu đối thoại, sẽ xuất hiện chuyển động này: các nhân vật đi từ nhu cầu thể lý
(của Đức Giêsu), để đi tới cơn khát thiêng liêng (của người phụ nữ), cơn khát
duy nhất có thể giải tỏa tình trạng khao khát của thân phận con người. Nhu cầu
hoặc các nhu cầu tự nhiên luôn luôn có đó để ta phải tìm thỏa mãn, nhưng không
đến độ bóp nghẹt ước vọng sâu xa của con người.
- Lời
xin nước và ân ban nước hằng sống (cc. 7-15). Trong phân đoạn cc. 7-15, chúng ta gặp được một mạc khải về nước hằng
sống. Khi thấy người phụ nữ, Đức Giêsu liền xin uống. Người đang ở một mình,
các môn đệ đã vào thành mua thức ăn (c. 8), nên Người không thể xin các ông đáp
ứng nhu cầu.
Có lẽ
do nghe giọng nói của Đức Giêsu, người phụ nữ biết rằng Người không phải là dân
địa phương, nên đã cao giọng đưa ra mấy nhận xét tiêu cực. Làm sao Người lại
dám xin điều gì với một người Samari? Chẳng lẽ Người lại không biết tập tục cấm
một người đàn ông nói chuyện một mình với một người đàn bà lạ mặt? Các kinh sư
thường dạy rằng nếu ai cần xin một phụ nữ điều gì, thì phải nói thật ít. Do đó,
chúng ta hiểu nỗi ngạc nhiên của các môn đệ, khi trở về, thấy Đức Giêsu đang
trò chuyện với một người phụ nữ và lại là một phụ nữ Samari.
Cũng
như trong truyện Nicôđêmô, ở đây cơn khát của Đức Giêsu tạo dịp cho Người đối
thoại, nhưng hoàn cảnh đầy những dị nghĩa khiến cuộc đối thoại có thể bị phá
vỡ. Quả thế, câu nói của người phụ nữ: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi,
một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (c. 9) lẽ ra đã bắt Đức Giêsu phải
thinh lặng. Nhưng Đức Giêsu lại có sáng kiến bỏ qua cuộc tranh luận về các quy
luật xã hội tôn giáo dựa trên những đối lập hỗ tương có từ bao đời. Các đối lập
ấy không bao giờ là tiếng nói cuối cùng cho các tương quan giữa con người với
nhau.
Thoạt
tiên, câu trả lời của Đức Giêsu: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai
là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy
đã ban cho chị nước hằng sống” (c. 10), dường như muốn nhắc bà nhớ đến truyền
thống hiếu khách của dân Địa Trung Hải: giúp đỡ tận tình bất cứ người lữ khách
nào. Thế nhưng Đức Giêsu còn nhắm một đề tài lớn hơn. Từ c. 10 đến c. 15, có
một mẩu đối thoại nhỏ xoay quanh đề tài “nước/ân ban”. Bằng cách đó, Người muốn
lôi kéo sự chú ý của người phụ nữ vào điểm mà lẽ ra bà phải hiểu, nghĩa là lẽ
ra bà không được lẫn lộn hai yếu tố: một bên là nước cụ thể và vật chất, và bên
kia là nước hằng sống, ân ban hoàn toàn đặc biệt bây giờ được trao tặng.
Từ c.
10, nổi rõ là “nước” mà Đức Giêsu nói đến thì cao trọng hơn là nước thiên
nhiên, nước kín từ giếng lên. Còn phải hiểu ngầm một điều song song khác, đó là
nước mà Đức Giêsu hứa ban thì cao trọng hơn nước các tổ phụ đã ban; như vậy,
mạc khải của Đức Giêsu về phẩm chất, thì cao trọng hơn mạc khải của các tổ phụ
(như pêgê so với phrear). Ta thấy rõ trên bình diện biểu tượng,
trọn con đường mà người phụ nữ phải trải qua: khởi đi từ cái giếng Giacóp (x. St
24), bà phải đi lên tới tận nguồn nước hằng sống, là chính Đức Giêsu. Đây hầu
như là lời loan báo chương trình mà bài tường thuật sẽ phải rảo qua. Bởi vì
người đàn bà có thể thực hiện bước ấy, Đức Giêsu mới đề nghị cho bà nước hằng
sống (Ga 4,10).
Đã mơ
hồ linh cảm người đang đối thoại với mình là một người khác thường, người phụ
nữ không quay về điều được nói đến nữa, nhưng quay về người đã xin bà cho uống,
và bây giờ lại tỏ ra sẵn sàng ban cho bà nước hằng sống. Bà hỏi (c. 11), y như
thể muốn nói với giọng mỉa mai rằng: “Ông tưởng ông là ai chứ? Ông không có gầu
để kín nước mà giếng lại sâu, thế mà ông lại đề nghị như thế?” Rồi bà tiếp:
“Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính
Người đã uống nước giếng này, cả con cháu...”.
Một
lần nữa, cuộc gặp gỡ có thể bị phá hỏng, bởi vì đề nghị của Đức Giêsu đã không
được đón nhận. Nhưng Đức Giêsu kiên nhẫn tiếp tục. Người tìm cách gợi lên nơi
bà khát vọng chân thật sẽ đưa bà đến chỗ quay hướng về Người, như quay về với
Đấng duy nhất có thể thỏa mãn điều bà đang đi tìm. Vậy điều đầu tiên là làm cho
bà hiểu rằng có hai loại nước: loại thứ nhất là nước tự nhiên của giếng, không
thể làm cho hết khát, và loại thứ hai, nước mà Người sẽ ban, sẽ giải khát hoàn
toàn. Hơn nữa, loại nước thứ hai còn biến kẻ uống thành một mạch nước trào
dâng. Đàng khác, Đức Giêsu muốn đưa bà chuyển đi từ ân ban đơn giản hoặc ân ban
của Thiên Chúa đến Đấng ban ơn, là chính Người. Ở c. 15, người phụ nữ đã đưa
một bước chân về phía Đức Giêsu, nhưng đồng thời lại kéo mọi sự về bình diện
của bà, về các nhu cầu trực tiếp của bà, điều đó chứng tỏ bà chưa hiểu gì cả.
Thứ nước bà ấy mong có không phải là thứ mà Đức Giêsu muốn ban cho bà.
Mặc
dù lại gặp một thất bại thứ hai, Đức Giêsu không nản lòng, không dừng lại,
Người vẫn tiếp tục bằng cách dựa trên sự mở lòng nửa vời của người đàn bà.
- Mạc khải về nền phụng tự chân thật
(cc. 16-26). Cuộc đối thoại lại chuyển sang một hướng khác hẳn. Không úp mở,
Đức Giêsu bảo bà đi gọi chồng lại đây. Qua câu nói này, Đức Giêsu nắm lại phần
chủ động trong đối thoại. Bà đã thú nhận không mập mờ rằng bà không có chồng.
Đức Giêsu trân trọng sự chân thành đó. Nhưng Người cho bà thấy khả năng hiểu
biết đặc biệt của Người khi nói rằng rằng bà đã có năm đời chồng. Đã thế, Người
còn nói: “Hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Nếu nói Đức
Giêsu đã cư xử thiếu tế nhị và lịch sự, là chúng ta phán đoán với các tiêu chí
của chúng ta hôm nay. Thật ra, khi nói như thế, Đức Giêsu đã cư xử như các ngôn
sứ Cựu Ước, có khả năng đọc trong tim người đối thoại (x. Êlisa).
Người phụ nữ không mất tinh thần. Bà
nhận ra chiều kích ngôn sứ này. Đây không phải là một cuộc xưng thú tội lỗi ép
buộc, nhưng là một bước đi tới sự thật, nhờ đó người phụ nữ cảm thấy được giải
thoát khỏi quá khứ của bà. Sự thật và sự rõ ràng của cuộc gặp gỡ đòi hỏi sự
trong suốt này. Bây giờ bà hướng về hiện tại và tương lai một cách mới mẻ, và
hậu quả là bà tuyên xưng Đức Giêsu là một ngôn sứ. Ở đây có hai chuyển động
đồng thời: một đàng, người phụ nữ xưng thú tình cảnh thực tế của mình; đàng
khác, việc xưng thú này giúp bà nhận biết chân tính của Đức Giêsu. Như vậy, bà
đã thực sự chuyển sang một bình diện khác và bắt đầu nhìn các sự việc dưới một
góc độ mới. Một mẩu đối thoại về nền phụng tự chân thật đã sẵn sàng được mở ra.
Cuộc đối thoại tiến sang một giai đoạn
mới nữa. Người phụ nữ đi tới một bình diện hiểu biết mới: đã linh cảm Đức Giêsu
là ngôn sứ, bà hỏi Người rằng đâu là nơi hợp pháp để thờ phượng Thiên Chúa, núi
Garidim hay Giêrusalem, và bà dùng lời lẽ nghèo nàn để trình bày thế lưỡng nan
truyền thống giữa người Do Thái và người Samari. Mặc nhiên bà nhìn nhận uy tín
của Người nên xin Người giải quyết vấn đề. Đây là dịp tốt để Đức Giêsu đưa bà
vào việc phụng tự chân thật (Ga 4,21-24), Người đã nói thẳng thắn và đơn
giản về ý nghĩa của phụng tự trong thần khí và sự thật, mà không bận tâm xem là
bà có hiểu chăng. Người không đi vào các tranh cãi “truyền thống”, cứ để cuộc
xung đột trong tình trạng mở, chỉ nêu bật ý nghĩa đích thực của việc thờ
phượng.
Đối với Đức Giêsu, điểm chính của vấn
đề không chỉ nằm tại việc “thờ phượng”, mà là “thờ phượng Chúa Cha”. Để nói về
thực tại này, Người dùng các đại từ “các người” và “chúng tôi”. Có những tác
giả cho rằng “chúng tôi” là Đức Giêsu, hoặc là cộng đoàn Kitô hữu, còn “các
người” là những người đối thoại không phải là Kitô hữu; nhưng đọc như thế là
không tôn trọng mặt chữ và thời điểm của bản văn. Chắc chắn nhất, trên bình
diện lịch sử, và theo ngữ cảnh cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ
Samari, là coi “các người” là dân Samari, còn “chúng tôi” là người Do Thái, và
Đức Giêsu cũng thuộc về nhóm đó.
Sau
khi đã nêu bật các yếu tố chính của tranh luận tôn giáo, trước khi đi tiếp, Đức
Giêsu không ngần ngại khẳng định rõ ràng rằng ơn cứu độ phát xuất từ dân Do
Thái (c. 22). Ý nghĩa đầu tiên của câu này là Đức Giêsu không đặt lập trường
của người Do Thái và người Samari trên cùng một bình diện (như chúng ta nói: có
những người là “chính thống” và có những người là “lạc giáo”). Không thể dễ
dàng loại trừ những khác biệt thuộc quá khứ; chúng đã có đó, chúng có ý nghĩa
của chúng. Nhưng còn có ý nghĩa khác nữa: Đức Giêsu muốn nhắc nhớ đến lịch sử
cứu độ như đã có và như Thiên Chúa đã muốn có. Và như vậy, đây không phải là
một câu thêm vào (glose) như Bultmann và một vài tác giả đã chủ trương.
Khởi đi từ công thức này, phải nhìn nhận Đức Giêsu đã nhập thể trong dân Do
Thái. Điều này lại làm nổi rõ hơn tầm quan trọng của Cựu Ước, liên hệ
đến lịch sử cứu độ. Bây giờ, cho cả hai nhóm, không còn có một quyền ưu tiên
nào cả, họ cần phải đi đến một kiểu phụng tự mới, “trong thần khí và sự thật”.
Dọc
theo lịch sử, người ta đã thờ phượng Thiên Chúa, bây giờ cần tiếp tục. Việc thờ
phượng của người Israel không sai; vào thời đó, kiểu thờ phượng như thế là tốt
và đúng. Nhưng tính từ “đích thực” (alêthinoi) cho thấy rằng trong kiểu
thờ phượng trước đây còn có nhiều thiếu sót, và chỉ kiểu thờ phượng mới này mới
đạt sự hoàn hảo, do có giá trị phổ quát. Kiểu thờ phượng sau không phải là một
ngẫu hứng của loài người, nhưng là do mạc khải của Thiên Chúa như là Cha trong
Con, Đức Giêsu Kitô. Mạc khải này được đưa đến chỗ thành toàn nhờ chính Đức
Giêsu. Việc thờ phượng này là chân thật bởi vì do Thần Khí, do Thiên Chúa, do
từ trên cao, gợi lên. Kiểu thờ phượng này chuẩn nhận sự thật của những gì Đức
Giêsu nói. Từ nay, bất cứ người nào thờ phượng đích thực đều phải quan tâm thờ
phượng Thiên Chúa như Ngài muốn được thờ phượng, chứ không như họ thấy là tốt.
Người
phụ nữ lại nêu ra một nhận định tổng hợp (Do Thái và Samari) liên quan đến Đấng
Mêsia sẽ đến, mà người Samari cũng đang chờ đợi (Samari: Ta’eb). Đã nhìn
nhận Đức Giêsu là ngôn sứ, lúc này bà còn linh cảm mạnh mẽ tầm quan trọng của
con người Đức Giêsu. Thế là bà đã đủ chín muồi để có thể đón nhận lời công bố
long trọng của Đức Giêsu trong tư cách Đấng Mêsia. Đây là đỉnh cao của cuộc đối
thoại.
Hướng
đi cứ thay đổi liên tục. Và Đức Giêsu, chỉ sau tất cả những chặng này, mới tự
mạc khải cho bà như là Đấng Mêsia, Người nói đơn giản: “Chính là tôi (egô
eimi)”. Công thức egô eimi đưa chúng ta trở lại với tên của Đức Chúa
(Yhwh), khiến chúng ta có thể nói
Đức Giêsu là chính là Đức Chúa đến viếng thăm dân Samari. Đến cuối cuộc thăm
viếng, người Samari đã nhận biết Người như là “Đấng cứu độ trần gian” (c. 42); Người
đã đến để ban sự sống đời đời (c. 14) và dạy cho biết nền phụng tự chân thật
(cc. 23-24).
- Đối
thoại với các môn đệ (cc. 27-38). Trong khi các hiệu quả của cuộc đối thoại
giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari còn đang triển nở như thế, Đức Giêsu lại
đi vào một cuộc đối thoại khác bên bờ giếng (Ga 4,31-38). Sau những lời
nói với Nathanaen, đây là lần đầu tiên Người quan tâm rõ ràng đến các môn đệ
Người. Các ông này đã cùng đi đường với Người và liên tục được Người nhắc nhở,
nhưng rất hiếm khi Người ngỏ lời riêng với các ông. Chỉ các diễn từ cáo biệt
mới trọn vẹn được ngỏ với các ông thôi. Với người phụ nữ đã đến kín nước, Đức
Giêsu nói về ân huệ của Người, nước vô song; với các môn đệ vừa về tới nơi sau
khi đã mua thực phẩm, Người nói về lương thực mà chính Người nhờ đó mà sống.
Cuộc đối thoại có hai đề tài: Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết công việc của
Người có những nét tiêu biểu nào (c. 34) và lần đầu tiên Người khẳng định rằng
họ được tham dự vào sứ mạng của Người và cách thức tham dự (c. 38). Chính Người
cũng không đến nhân danh chính mình, cũng không làm việc theo ý riêng, nhưng
đến như là sứ giả của Chúa Cha và tất cả cuộc đời Người nhắm thi hành ý muốn
của Chúa Cha. Tất cả những gì Người loan báo và cống hiến đều góp phần vào công
trình mà Chúa Cha đã khởi sự (x. 3,16) và nay Đức Giêsu là Chúa Con đưa đến chỗ
hoàn tất. Điều này cũng đúng cho công việc Đức Giêsu đang làm nơi người Samari,
mà bây giờ người ta đã thấy kết quả. Đến lượt Người, Đức Giêsu lại sai phái các
môn đệ, để họ tham dự vào công việc của Người và tiếp tục công việc đó. Nhưng
nỗi mệt nhọc thật là của Đức Giêsu. Những gì các môn đệ làm hoàn toàn lệ thuộc
vào những gì Đức Giêsu đã làm trước đây.
* Kết
luận: Gặp gỡ với dân Samari (39-42)
Sau khi đối thoại với Đức Giêsu, các
môn đệ lại bị bỏ rơi trong bóng tối một lần nữa. Được đánh động bởi lời chứng
của người phụ nữ, dân Samari đã đến gặp Đức Giêsu. Bây giờ họ muốn trực tiếp
nghe Người. Thế là các môn đệ đầu tiên đã ở lại với Đức Giêsu (Ga 1,39),
còn những người Samari này đã xin Người ở lại với họ. Nhưng dù thế nào, chỉ nhờ
tiếp tục mở ra hiệp thông với Người, người ta mới có thể có kinh nghiệm về
Người là ai và Người ban tặng điều gì. Được Đức Giêsu nhận cho ở lại với Người,
các môn đệ đầu tiên đã khám phá ra Người là “Đấng Mêsia” (1,41); được Đức Giêsu
chấp nhận ở lại với họ, người Samari đã nhìn nhận Người như là “Đấng Cứu độ
trần gian” (4,42), như là Đấng đã được Chúa Cha ban vì lòng yêu thương và được
sai phái đến để cứu độ trần gian (3,16-17). Nay họ tin là nhờ chính tương quan
trực tiếp với Đức Giêsu chứ không dựa vào lời chứng của người phụ nữ nữa. Lời
chứng ấy đưa họ đến chỗ nghe Đức Giêsu để đào sâu đức tin, và bây giờ đức tin
đó có thể thực sự bắt đầu triển nở.
+ Kết
luận
Bằng cách dùng nhiều danh hiệu cách
tiệm tiến, mỗi danh hiệu lại như một lời mời gọi tin vào Đức Giêsu, bản
văn này vén mở cho thấy mầu nhiệm Đức Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là một người
lữ khách vô danh. Sau đó, Người đã được coi là một người Do Thái (c. 9).
Dần dần Người xuất hiện ra như nhân vật còn cao trọng hơn tổ phụ Giacóp (c.
12). Thêm một bước nữa, Người được được gọi là ngôn sứ (c. 19). Và cuối
cùng, người phụ nữ linh cảm Người là Đấng Mêsia (c. 29). Nhưng lại chính là
những người Samari, hoa trái đầu mùa của Dân ngoại, mới tuyên xưng niềm tin của
họ vào Đức Giêsu, “Đấng Cứu độ trần gian” (c. 42). Quả thật, Đức Giêsu chính là
ánh sáng thế gian (Ga 8,12; 12,46), Đấng mạc khải và Đấng Mêsia, là Con
Một Thiên Chúa được Ngài cử đến cứu trần gian. Bất cứ người nào tin vào Người
thì được sống đời đời (3,16-18). Người là Ngôi Lời đang thực hiện điều mà Lời
Tựa đã nói: “Những ai đón nhận (Người), tức là những ai tin vào danh Người, thì
Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (1,12).
Ngoài
ra, có một ý nghĩa khác của bản văn, ý nghĩa biểu tượng, cũng có thể nêu ra.
Trong truyền thống Kinh Thánh, cái giếng đã là nơi khởi đầu của nhiều
cuộc tình duyên. Vậy “cái giếng Xykha” này gợi nhớ đến cuộc “tình duyên” nào?
Trong Cựu Ước, Israel thường được giới thiệu là hôn thê của Đức Chúa (Yhwh). Israel-hôn thê thường thất
trung, ngoại tình với các thần Ai Cập, Átsua, Babylon, Ba Tư, Rôma. Câu truyện
người phụ nữ Samari hẳn là câu truyện của dân Israel mà Đức Giêsu đến gặp và
muốn dẫn về với Đức Chúa. Hơn nữa, TM IV còn giới thiệu Đức Giêsu như
chàng rể và nhân loại như một hôn thê tội lỗi, mà Người đến để đưa về sống trung
thành.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Qua cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, chúng ta nhận ra cả một
khoa sư phạm Đức Giêsu đã vận dụng để đưa bà đến đức tin. Trước tiên, Người
khơi lên sự tò mò để bà tìm hiểu, qua việc nhắc đến một công việc tầm
thường làm mỗi ngày, là đến giếng kín nước để giải tỏa cơn khát thể lý. Từ đó,
Người gợi đến một thực tại khác, nước hằng sống. Thế rồi câu chuyện lại
chuyển sang một hướng khác khi Đức Giêsu đề cập đến đời sống riêng tư
nhất của bà, cơn khát tình yêu dường như vẫn chưa được đáp ứng thỏa đáng. Mục
tiêu của Đức Giêsu không phải là đưa bà đến chỗ nhìn vào mình, nhưng là nhìn
vào Người để nhận biết Người là ai.
2. Là
con người, với sức riêng, chúng ta không thể đạt tới Thiên Chúa và nhận biết
Ngài trong thực tại của Ngài. Chúng ta là “xác thịt”, những hữu thể yếu đuối,
mỏng manh, tạm bợ; ngược lại, Thiên Chúa là “Thần Khí”, đầy sức mạnh ban sự
sống vô biên và bất khả kháng. Bằng sức riêng, chúng ta không thể đạt đến bất
cứ sự hiểu biết chân thật nào về Thiên Chúa, hoặc một tương quan đúng
đắn nào với Ngài. Chỉ Đức Giêsu mới chỉ cho chúng ta và giúp chúng ta thờ
phượng Thiên Chúa đúng đắn, bởi vì Người ban Thần Khí và Chân Lý cho chúng ta,
Người là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ trần gian (Ga 6,42).
3. Đức Giêsu là Đấng có khả năng giúp chúng ta khám phá
ra mọi chiều kích và ý nghĩa đích thực của cơn khát đang dày vò lòng dạ chúng
ta. Người là Đấng duy nhất có thể tố giác những phương tiện tạm bợ chúng ta vẫn
đang vận dụng để đánh lừa cơn khát ấy hoặc thỏa mãn nó cách rẻ tiền. Người sẽ
dạy chúng ta biết cách sống và làm cho từ lòng chúng ta trào vọt ra dòng suối
ân huệ của Thiên Chúa.
4.
Các môn đệ được Đức Giêsu sai đi, tiếp nối công việc của Người (là công việc
Chúa Cha giao phó). Họ được thu hoạch hoa trái là công việc mệt nhọc của Đức
Giêsu; những gì các môn đệ làm tùy thuộc hoàn toàn vào những gì Đức Giêsu đã
làm trước. Đến lượt họ, họ cũng phải tận tình gieo vãi, để những người đến sau
họ được gặt hái hoa trái. Người này gieo, người kia gặt. Đó chính là sự hiệp
thông liên đới trong sứ mạng chung mà Đức Giêsu đã để lại cho các môn đệ Người
cho đến tận thế. Khi làm như thế, họ cũng luôn cần ý thức họ làm ý muốn của
Chúa Cha.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm