Bài 1
Muốn Sống Đời Đời, Hãy Ăn Bánh Giêsu
Suy Niệm Lễ Nhất - Ngày Lễ Các Linh Hồn
(Ga 6, 51 – 59)
Con người sinh ra là để sống, để vươn lên. Ai trong chúng ta cũng đều có
một mơ ước một khát vọng riêng cho mình, cho dù đó là mơ ước nhỏ hay to, cao xa
hay thấp hèn. Nếu con người sống mà không có mơ ước thì chỉ như một cỗ máy.
Khát vọng vươn lên đó chính là mục đích sống của con người. Niềm tin Kitô giáo
dạy cho chúng biết, con người có xác có hồn, có đời này và đời sau. Vì thế,
ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc ở đời tạm thế này, người tín hữu phải
đạt được sự sống đời đời mai sau nữa. Nhưng đâu là bí quyết để sống trường sinh
là một câu hỏi lớn ?
Khởi đi từ việc thấy đám đông dân chúng theo mình, Chúa Giêsu đã
"chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi
sống họ, sống đời tạm này. Từ của ăn vật chất nuôi sống thể các, Chúa gợi lên
nơi lòng họ sự khát vọng tìm kiếm thay vì của ăn hay hư nát, thì tìm kiếm của
ăn thiêng liêng, lương thực trường tồn, lương thực ấy là chính Chúa Giêsu (x.
Ga 6). Thế là khát vọng sống trường sinh nổi lên trong họ, Chúa mạc khải luôn cho họ: "Ta là bánh
hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời" (Ga 6,
51).
Ngày xưa Chúa Giêsu gọi mời những người Do thái, ngày nay Chúa
cũng mời gọi chúng ta hãy đến mà ăn
Bánh Giêsu. Nếu chúng ta muốn sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có
được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người
: "Là Bánh Hằng Sống … ai
ăn … sẽ được sống đời đời" (Ga
6,51).
Sự sống đời đời, tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Thiên
Chúa là Đấng làm cho sống, là nguồn mạch sự sống. Vì thế, chúng ta thật hạnh
phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời
(x.Ga 6, 54). Hơn nữa còn được Chúa đến cắm lều ngay nơi lòng chúng ta: "Ai
ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy" (Ga 6,
56).
Chúa Giêsu khẳng định, Người là bánh bởi trời xuống, Người đến làm no thỏa
cái đói, cái khát, nhất là lấp đầy khát vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi
thời là trường sinh bất tử.
Nếu như trong sa mạc xưa kia, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa
dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, thì nay Mình Máu Thánh Chúa là lương
thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê
trời hưởng phúc vinh quang. Chẳng có gì chân thật và an ủi hơn cho những linh
hồn khát khao nên thánh.
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm qua, với lời
kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không
gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người
được coi là diễm phúc của Thiên Chúa. Khi chiếm ngắm các ngài, chúng ta có
thêm động lực để phấn đấu hầu lấp đầy khát vọng làm thánh của chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là sự sống trường sinh,
ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, và siêng năng lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa
để được sống đời đời. Xin cho những kẻ khi còn sống đã tin tưởng vào lời hứa
của Chúa đã rước Mình và Máu Thánh Chúa được sống muôn đời. Amen.
Lm. Antôn
Nguyễn Văn Độ
Bài 2
Xin Nhớ Đến Con Cùng
Lễ Nhì
Suy Niệm Lễ Nhì – Ngày Lễ Các Linh Hồn
(Lc 23, 33. 39-43)
Mọi tạo vật đều muốn mình được nhớ đến
Có một loài hoa tên là Lưu ly có màu
tím, màu trắng, xanh hoặc vàng tuyệt đẹp, người ta hay hái để tặng nhau. Các cô
thiếu nữ thường gọi tên hoa là " xin đừng quên em ", còn
các chàng trai một mực khăng khăng gọi Lưu ly là "xin đừng quên
anh". Cho dù gọi hoa theo tên nào thì đây cũng là
một loại hoa luôn luôn gợi nhớ một niềm thương cảm mênh mông, một kỷ niệm
sâu xa thầm lặng không quên được.
Chuyện kể rằng: ngày xửa ngày
xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Một sáng mùa xuân trời trong vời vợi. Họ dắt
nhau dạo chơi bên bờ một con suối, hoa Lưu ly mọc dày, cố vươn cành, nghiêng
mình soi bóng xuống dòng nước trong xanh. Trong khi chàng trai tần ngần ngắm
nhìn dòng thác đổ thì cô gái say sưa hái hoa. Cô nhoài người ra bờ suối hái mấy
nhành hoa đẹp, chẳng may nàng bị trượt chân ngã xuống suối bị dòng nước cuốn
trôi. Nàng cố hết sức ném lại nhành hoa có ý trao tặng người yêu và gọi với
"Xin đừng quên em".
Còn theo một truyền thuyết Công giáo, ngày nọ,
Thiên Chúa đi ngang qua vườn địa đàng sau khi sáng tạo ra thế giới muôn loài.
Người bỗng chú ý đến một bông hoa nhỏ và hỏi nó tên gì. Bông hoa ngượng ngùng
thì thầm : "Thưa Chúa, con sợ rằng con đã bị lãng quên mất rồi
ạ". Thiên Chúa ôn tồn trả lời : "Uh, Ta sẽ không bao giờ
quên con".
Chúng ta thấy, chẳng những con người luôn mong mình được
người khác nhớ đến, mà cả loài hoa cũng muốn mình không bị lãng quên.
Giáo hội lữ hành nhớ đến Giáo hội khổ đau
Sau khi đã cử hành lễ vinh quang và danh dự
của Giáo hội Khải Hoàn (Các Thánh), Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta hôm nay
đặc biệt nhớ đến đến và cầu nguyện cho Giáo hội Khổ Đau : những tâm hồn
tội lỗi đang ở trong thời gian thanh luyện đang rất cần sự nhớ đến và lời cầu
nguyện, lễ hy sinh, việc đền tội của chúng ta, để họ nhanh chóng được giảm bớt
hình phạt hiện tại, được thứ tha tội lỗi mà giờ đây họ không làm được gì cho
chính mình.
Hôm nay không phải là ngày buồn và tang tóc
: nhưng là ngày Giáo hội là Mẹ năn nỉ nài van cùng Thiên Chúa cho con cái mình
đã qua đời còn đang bị giam cầm nơi Luyện Tội chờ ngày thanh luyện cho đủ sớm
được giải thoát. Vì thế, Giáo hội kêu lên : "Lạy
Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu
chiếu soi trên các linh hồn... "
Xin nhớ đến con cùng
Trong khi tất cả những người khác nói với
Chúa Giêsu một cách khinh miệt : "Nếu
ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa!" (Lc
23, 39). Thì người trộm lành đã phạm bao lỗi lầm trong cuộc sống, cuối cùng lại
sám hối, níu lấy Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh và cầu xin : "Lạy Ngài, khi nào về nước
Ngài, xin nhớ đến tôi" (Lc 23, 42). Chính vì anh xin Chúa
một đặc ân là nhớ đến anh, nên Chúa Giêsu hứa với anh : "Quả thật, Ta bảo ngươi : ngay
hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 23, 43).
Chúa Giêsu là Con Một Chúa Cha, chỉ nói lời
tha thứ, chứ không nói lời kết án; và khi con người biết can đảm xin ơn tha
thứ, Chúa không bao giờ bỏ rơi lời cầu xin ấy. Lời hứa của Chúa Giêsu với người
trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao : lời ấy nói với chúng ta rằng, ơn
Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Người rất quảng đại, luôn ban cho
nhiều hơn điều con người cầu xin.
Ngày lễ nhớ cầu cho các linh hồn tổ
tiên, các đấng, các bậc, ông bà cha mẹ, thân bằng quyến thuộc đã qua đời hôm
nay gợi lên cho chúng ta về sự nhớ thương và đừng quên những người đã khuất.
Khi dâng lễ giỗ cầu cho người thân, chúng ta như nhắc nhớ Chúa : "Lạy Chúa… người thân yêu
này, chúng con không thể quên, lẽ nào Chúa lại không nhớ đến” (Lời
nguyện nhập lễ giỗ - Ngoài Mùa Phục Sinh SLRM tr. 1005). Và trong Kinh Nguyện
Thánh Thể II, chúng ta vẫn xin Chúa : "Xin
Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống
lại, và mọi người..."
Hôm nay, chúng ta nhớ tới tất cả mọi người,
kể cả những người không ai nhớ tới. Chúng ta nhớ tới các nạn nhân của chiến
tranh và bạo lực; các "trẻ em" trên thế giới bị đói khát và bần cùng
đè bẹp; những người vô danh đã yên nghỉ; các anh chị em bị giết vì là kitô hữu;
và biết bao nhiêu người đã hy sinh mạng sống để phục vụ tha nhân. Chúng ta hãy
phó thác cho Chúa cách đặc biệt những người đã lìa bỏ chúng ta trong năm nay và
xin Chúa nhớ đến họ và thương cho họ được hưởng ánh sáng tôn nhan.
Giờ đây, Thánh lễ là sự trợ giúp tinh thần
tốt nhất mà chúng ta có thể ban tặng cho các linh hồn, đặc biệt các linh hồn bị
bỏ rơi. Như Công Ðồng Chung Vaticăng II đã nhấn mạnh: "Giáo Hội lữ hành
trên trần gian ý thức đựơc sự hiệp thông này của tất cả Thân Mình Mầu Nhiệm của
Chúa Giêsu Kitô, ngay từ các thời kỳ đầu của Kitô giáo đã vun trồng với lòng
đạo hạnh lớn lao việc tưởng nhớ các người đã qua đời" (LG 50).
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và dâng lễ cầu
cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta không chỉ dừng lại nơi họ để cầu nguyện
cho họ mà thôi, chúng ta còn phải nài xin Chúa thương xót tất cả chúng ta nữa,
để chúng ta cũng được đồng hưởng sự sống đời đời, cùng với Ðức Trinh Nữ Maria,
Mẹ Thiên Chúa, thánh Giuse Bạn Đức Trinh Nữ, các Thánh Tông Ðồ, và toàn thể các
Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại, và cùng với các Ngài, chúng ta
được ca ngợi và tôn vinh Chúa.
Lạy Chúa, Chúa từng phán cùng kẻ trộm lành
: "Quả thật, Ta
bảo ngươi : ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc
23, 43). Xin Chúa thương nhớ đến những tín hữu đã qua đời còn trong Luyện Tội
nơi thiên đàng của Chúa và xin đừng để họ phải trầm luân đời đời trong Hỏa
ngục! Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn
Độ
Bài 3
Cậy Trông Và Hy Vọng Vào Chúa
Suy Niệm Lễ Ba - Ngày Lễ Các Linh Hồn
(Ga 17, 24 – 26)
Giữa ngày hôm qua
và hôm nay, biết bao nhiêu người đi viếng thăm vườn thánh là “nơi an nghỉ” chờ ngày sống lại của những
người đã chết. Chúng ta đi viếng họ với niềm tin yêu, dừng lại bên mộ của những
người đã yêu thương và làm điều tốt cho chúng ta trong sự cậy trông và lòng xót
thương vô bờ của Thiên Chúa tình yêu.
Chân lý Đức tin
Kitô giáo dạy chúng ta rằng giữa Trời và Đất có một trung gian gọi là Luyện ngục,
nơi ấy dành cho các tâm hồn chết khi mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, cần phải
được thanh tẩy để trở nên tinh tuyền, trong một mầu nhiệm đáng sợ mà thánh
Gioan Thánh Giá gọi là “Lửa Tình Yêu”. Tin vào tình yêu tạo dựng, hy sinh và cứu chuộc
của Thiên Chúa, chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, săn sóc mồ mả
và nhất là dâng lễ Misa, xin Chúa thứ tha và sớm giải thoát họ là chứng tá của
niềm tin ấy.
Cậy trông vào Thiên Chúa Tình Yêu
Người ta nói rằng : nếu tất cả
Thánh Kinh trên trái đất này bị hủy diệt bởi tai biến nào đó hay bởi một cơn thịnh
nộ phá hủy các hình tượng tôn giáo và chỉ còn một bản Kinh Thánh, và bản còn lại
đó cũng bị hư hại đến mức chỉ còn một trang, và nếu trang đó nhăn nheo đến độ
chỉ còn một dòng có thể đọc được, và nếu dòng đó là thư thứ nhất của thánh
Gioan viết “Thiên Chúa là Tình Yêu”,
thì coi như toàn bộ Thánh Kinh được khôi phục, bởi vì toàn bộ nội dung là ở đó.
Thiên Chúa đã yêu con người bằng một
tình yêu hào phóng khi tạo dựng con người, ban cho con người những hồng ân bên
trong và bên ngoài; Ngài cũng đã yêu chúng ta với một tình yêu khổ đau để cứu
chuộc ta, khi nghĩ ra cách hủy diệt chính mình, chịu đau đớn nhất, để minh chứng
cho ta thấy: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Trong tác phẩm Quo Vadis, một người ngoại
giáo hỏi Thánh Phêrô khi ngài mới đến Rôma như thế này : Nhã Điển đem đến cho chúng tôi sự thông thái, Rôma đem đến quyền lực,
còn tôn giáo của ông đem lại cho chúng tôi điều gì? Thánh Phêrô trả lời: Tình yêu!
Vâng, Thiên Chúa yêu con người bằng một
Tình yêu hào phóng, không những trao ban nhưng không, mà tình yêu đó còn mang theo
tha thứ. Thánh Phaolô thốt lên “Ít có ai
chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành.
Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc
chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5, 7-8). Con người có thể là kẻ thù của Thiên
Chúa, nhưng Thiên Chúa mãi mãi không là kẻ thù của con người.
Hy vọng vào Chúa
Vốn là Tình yêu, mang trong mình một
tình yêu thương xót, thứ tha và cứu chuộc nên Thiên Chúa luôn canh cánh trong
lòng, mong sao cho nhân loại được cứu chuộc. Người khẩn cầu tha thiết cùng
Thiên Chúa Chúa : “Lạy Cha, những kẻ
Cha ban cho Con thi Con muốn rằng : Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để
chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con”. Chúa Giêsu cầu nguyện
tiếp : “Con muốn rằng Con ở đâu thì
chúng cũng ở đó với Con” (Ga 17, 24). Chúa Giêsu ở đâu? Ở trong tình yêu
Chúa Cha; ở trong sự thật; ở trong Thánh Ý Chúa Cha; Ở trên Thập Giá và ở trên
thiên đàng.
Chính Cha đã sai Chúa Con và yêu thương loài
người như đã yêu thương Con. Trước khi về trời, Chúa Giêsu khẳng định với chúng
ta rằng Chúa Cha đã yêu thương chúng ta như đã yêu thương Chúa Giêsu.
Nói đến mầu nhiệm các thánh cùng thông
công, nghĩa là Các Thánh ở trên trời, các người lành dưới thế và các linh hồn ở
luyện ngục đều thông công với nhau. Các Thánh thông công với chúng ta. Đức tin
và Đức cậy không thể liên kết chúng ta vì Các Thánh đã được chiêm ngưỡng Chúa
muôn đời rồi ; nhưng điều liên kết chúng ta lại với nhau là tình yêu “chỉ
có tình yêu là đáng kể” (1Cr 13,13); Tình yêu này liên kết chúng ta với Chúa
Cha, Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế và Chúa Thánh Thần. Do đó, chúng ta không chỉ kính
Các Thánh vì nhân đức của họ, nhưng là hiệp nhất trong Thánh Thần của toàn thể
Giáo hội, được củng cố bởi việc thực thi tình huynh đệ.
Như vậy, Chúa Giêsu Nagiarét ngày nào
cũng như chúng ta hôm nay, được Chúa Cha yêu thương bằng một tình Cha yêu dấu.
Nhưng khác một điều, Người đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, dù
trong những lúc đau thương nhất của cuộc sống. Còn chúng ta, chúng ta cũng tin
vào tình yêu của Thiên Chúa, nhưng không mấy xác tín rằng Chúa Cha đã yêu
thương tôi như đã yêu thương Chúa Giêsu.
Chúng ta hãy tin vào tình yêu Thiên
Chúa. Tin tưởng, cậy trông, hy vọng và phó thác cho Ngài trong sự hiệp thông với
Các Thánh chính bản thân chúng ta, những người còn sống, đặc biệt những người
đã qua đời Giáo hội nhắc nhớ chúng ta cầu nguyện hôm nay. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bài 4
Các Tín Hữu Đã Ly Trần – Niềm Hoan Lạc Cùng Chư Thánh
LỄ CÁC ĐẲNG
LINH HỒN
Nếu như hôm qua, lời kinh, tiếng
hát, các bài đọc, thánh ca phụng vụ lễ Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa lôi cuốn
tâm hồn chúng ta vượt quá những giới hạn của không gian và thời gian, bay lên
cõi trời cao để chiêm ngưỡng các thánh, những người được coi là diễm phúc ở “đô thành
thiên quốc, thành Giêrusalem trên trời là mẹ của chúng ta” (Tiền tụng lễ
Các thánh). Thì hôm nay, mùng 02 tháng 11, màu sắc, âm thanh, phụng ca của ngày
lễ hướng tâm hồn chúng ta về các thực tại mai hậu, tưởng nhớ các tín hữu đã qua
đời “ những người đã ra đi trước chúng ta
với dấu ấn đức tin và nay đang nghỉ giấc bình an” (Kinh nguyện Thánh Thể số I), ở nơi luyện ngục, để
dâng lễ cầu nguyện cho họ.
Chân lý Đức tin
Kitô giáo dạy chúng ta rằng giữa Trời và Đất có một trung gian gọi là Luyện ngục,
nơi ấy dành cho các tâm hồn chết khi mắc tội mọn hay là đền tội chưa đủ, cần phải
được thanh tẩy để trở nên tinh tuyền, trong một mầu nhiệm đáng sợ mà thánh
Gioan Thánh Giá gọi là “Lửa Tình Yêu”. Chúng ta lo lắng cho những người
thân đã qua đời con đang bị giam cầm nơi luyện ngục, chịu khổ đau là phải. Việc
những kẻ con sống cần phải làm là đọc kinh cầu nguyện, hy sinh, làm phúc, nhất
là xin Lễ Misa cho những người ấy. Điều trên giúp chúng ta hiểu việc chúng ta phải làm cho họ. Dù đang sống cuộc sống dương gian, hay hưởng phúc thiên đàng hoặc đang
thanh luyện nơi luyện ngục, tất cả mọi người đều liên đới với nhau trong Đức
Kitô. Đó chính là ý nghĩa của tín điều các Thánh Thông Công mà chúng ta tuyên
xưng và thực hành.
Đức tin được thể hiện
Một câu hỏi lớn. Hỏi : Các thánh thông công nghĩa là làm sao ?
Thưa. Các thánh ở trên trời cùng các linh hồn ở luyện ngục và các bổn đạo dưới
đất đều thông công với nhau. Các bổn đạo tôn kính cầu xin các thánh, và các
thánh cầu bầu cho các bổn đạo trước mặt Đức Chúa Trời. Các bổn đạo dâng việc
lành phúc đức cầu cho các linh hồn ở luyện ngục, mà khi các linh hồn ấy đã được
lên thiên đàng thì cùng cầu bầu cho các bổn đạo nữa. Các bổn đạo có lòng kính mến
Đức Chúa Trời cùng thương yêu nhau thì chẳng những lập công cho mình mà lại làm
ích cho kẻ khác nữa. (Sách Bổn Hà Nội tr. 39-40)
Những câu bổn căn bản trên giúp chúng ta
hiểu tại sao Giáo Hội dành hẳn tháng 11 hàng năm để cầu nguyện cho anh chị em đã qua đời. Vì niềm hy vọng Kitô giáo không
bao giờ chỉ mang tính cách cá nhân, nhưng còn là hy vọng cho tha nhân nữa. Nên,
cuộc sống của chúng ta được liên kết với nhau, và điều tốt hay điều xấu của người
này liên quan tới người kia nữa. Thế nên, lời cầu nguyện của một người còn đang
lữ hành trên dương thế có thể giúp đỡ một linh hồn khác đang được thanh luyện
sau khi đã qua đời. Đó là lý do vì sao ngày hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta cầu
nguyện cho những người thân yêu đã qua đời, và đến viếng thăm mộ của họ. Vì
chúng ta có trách nhiệm phải nhớ đến nhau, cầu nguyện, hy sinh, đền tội thay
cho nhau.
Còn tin còn cầu nguyện, còn chia sẽ một
Thánh Thể là còn nhớ đến nhau, thuộc về nhau. Tình yêu thương bác ái dành cho
các linh hồn trong lúc này chính là lời cầu nguyện, Lễ Misa và sự hy sinh.
Khi cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, Giáo Hội hướng về
Chúa Kitô phục sinh, Ðấng đã chết và sống lại để cho tất cả chúng được sống lại.
Tin vào sự sống lại của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một
cùng đích cho mọi người.
Đức tin không giải thoát những kẻ tin khỏi
sự khổ não phải chết, nhưng đức tin sẽ làm êm dịu với hy vọng : “Nếu có buồn sầu vì số phận phải chết… cũng sẽ
được ủi an”. (Kinh Tiền Tụng lễ các linh hồn).
Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những
người thân và các tín hữu Kitô. Nhưng còn được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện
cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về Giáo hội hay ở
ngoài Giáo hội hữu hình. Với niềm xác tín, Chúa Kitô là trung gian duy nhất và
là Đấng Cứu Độ duy nhất, tình thương của Thiên Chúa ôm trọn tất cả mọi người.
Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo
Hội của Chúa, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của
mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Chúa, họ cũng thuộc về Chúa,
cho dẫu chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ một
mình Chúa mới biết lòng tin của họ.
Đạo hiếu được thi hành
Báo
hiếu là bổn phận thiêng liêng của tất cả mọi người. Ðông cũng như Tây, xưa cũng
như nay, những người có hiếu, không ai là không nghĩ đến công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ. Nhưng cách thể hiện tấm lòng cụ thể tùy theo trình độ văn
minh và phong tục tập quán của mỗi dân tộc mà có những khác biệt.
Ở
Việt Nam ta, với triết lý Á Đông vốn đề cao chữ hiếu. Có hai cách báo hiếu: khi
cha mẹ còn sống, con cái phải chu cấp đầy đủ những nhu yếu vật chất để cha mẹ
được an vui, khi cha mẹ qua đời, con cái phải phụng thờ và thực hiện những di
chúc để lại.
Ðây là cơ hội quý báu để những người con hiếu
thảo báo đáp phần nào công ơn trời bể của tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Cây có
cội, nước có nguồn, Con người có tổ có
tông : có cha có me, có ông có bà”. Ai trong chúng ta cũng đều thuộc
nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu, đạo làm
người ấy.
Cũng như muôn tạo vật, con người cũng có cội, có nguồn,
có tổ có tông. Họ là những “tiền nhân” đã ra đi trước chúng ta, để lại hậu duệ
là chính chúng ta, với ước mong giòng giống của các ngài được trường tồn, đó
chính là quy luật “bảo tồn sự sống” mà Thiên Chúa đã thiết lập.
Thảo
kính cha mẹ phải phát xuất từ trái tim, thôi thúc lòng người hiếu thảo thấm
thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
Mẹ cha vất vả
nuôi mình
Từ khi trứng nước công trình biết bao.
Làm con phải
nhớ công lao,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. (Ca dao
Việc thảo kính cha mẹ không chỉ là việc: con cái trả ơn sinh
thành mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng gắn liền với huyết thống, máu mủ, tình
thân, hay là một qui định của xã hội mà là một điều răn của Chúa dạy : “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Thiên Chúa đã nâng điều răn thứ bốn lên ngang hàng với các điều
răn khác ; điều đó chứng tỏ con cái phải hiếu kính đối với cha mẹ đến mức nào.
Môisen đã nói “Hãy thảo kính cha mẹ và ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử”(Mc, 7-13).
Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải
biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi
đã khuất bóng.
Bên Đông phương người ta đề cao chữ HIẾU và nâng lên
thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU. Theo truyền thống Nho giáo, trong các
tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.
Cùng tột điều thiện, không gì
hơn hiếu,
Cùng tột điều ác, không gì hơn bất
hiếu (Kinh
Nhẫn Nhục)
Không ai có thể phủ nhận được công ơn cha mẹ trong việc sinh
thành và dưỡng dục con cái. Thiên Chúa đã dựng nên con người,
nhưng không trực tiếp mà phải qua trung gian cha mẹ. Trước tiên, Thiên Chúa dựng
nên ông Adam và bà Evà, rồi từ đó con cháu nối tiếp. Đúng là : Người ta có cố có ông,
Như cây có cội như sông có nguồn
Lý thuyết là như thế, nhưng trong ngày nay chúng ta hãy nhìn qua
lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời
và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (theo sách giáo lý Tân định). Đồng
thời, Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm
cánh hoa hồng chẳng thơm (Ca dao)
Hướng
về thực tại mai hậu
Khi cầu nguyện cho những anh chị em tin
hữu đã qua đời, chúng ta không chỉ dừng lại nơi họ, cho họ, vì họ mà còn cho
chúng ta nữa những người còn sống. Sự ra đi trước của họ, nhắc nhớ chúng ta về
một cõi đi về mà ai ai trong chúng ta cũng phải về, đó là quê trời vinh phúc.
Trong khi cầu nguyện cho anh chị em đã qua đời, chúng ta cũng xin Chúa làm cho
đức tin vào Con Chúa đã sống lại từ cõi chết được lớn mạnh nơi chúng ta. Nhờ niềm
tin vào sự sống đời sau, tin vào Đức Kitô là sự sống lại và là sự sống mà mỗi
người chúng ta ngày nay luôn bước tới trong niền hy vọng. Cùng đích của người
Kitô hữu là được trở về nhà Cha hưởng vinh phúc. Cùng đích này cũng giúp chúng
ta sống cuộc sống hiện tại sao cho thật có ý nghĩa, thật có giá trị, không hổ
thẹn là con cháu đáng quí của những người đã khuất, không hổ thẹn là người môn
đệ của Đức Kitô, Đấng hằng sống. Hy vọng rằng qua đời này tất cả lại cùng đoàn
viên trong nhà Cha trên Trời.
Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được lên
chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Chúa đời đời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ