LỄ MẸ THIÊN CHÚA (01/01)
Ds 6,22-27 ; Gl 4,4-7 ; Lc 2,16-21
MA-RI-A MẸ
CHÚA GIÊ-SU VÀ MẸ CỦA CHÚNG TA
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG:
Lc 2,16-21
(16) Họ
liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với
Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều
đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên
thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ
mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người
chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều
họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. (21) Khi
Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ Cắt Bì,
người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su. Đó là tên mà sứ thần đã đặt,
trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng Mẹ.
2. Ý CHÍNH: CHÚA GIÊ-SU LÀ CON MẸ MA-RI-A
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại
cuộc viếng thăm của các mục đồng nơi hang đá Be-lem sau khi được thiên
thần hiện đến loan báo Tin mừng về Đấng Cứu Thế đã ra đời. Các mục
đồng vui mừng lập tức lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế. Cuối cùng họ đã
tìm thấy hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng
cỏ tại cánh đồng Bê-lem. Họ đã thuật lại sự thể mắt thấy tai nghe.
Riêng Đức Ma-ri-a thì ghi nhớ các điều ấy và suy niệm trong lòng.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là
Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga
19,27).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ LỄ ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ THIÊN CHÚA :
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa là một đặc
ân quan trọng nhất trong các đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ và là tước hiệu
được Hội Thánh sử dụng để ca tụng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
- Tuy nhiên, đến thế kỷ V, Nes-tô-ri-ô
đã công khai chống lại tước hiệu Mẹ Thiên Chúa này. Theo Nes-tô-ri-ô, Đức Maria
chỉ được gọi là Mẹ Đức Giêsu Kitô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Bấy giờ
một cuộc tranh luận thần học lớn lao về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể đã xảy ra
trong Hội Thánh, nên vào năm 431 Công đồng Ephêsô đã được triệu tập dưới sự chủ
toạ của thánh Cyrillô. Chính Công đồng này đã xác tín Đức Maria là Mẹ Thiên
Chúa như sau: “Nếu ai chối Đức Giêsu là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh nữ
Đồng trinh Maria là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời Thiên
Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông.” Từ đây tước hiệu Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên
Chúa đã được Hội Thánh dùng để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
- Vào năm 1931, Đức Giáo Hoàng Piô
XI khi thiết lập lễ kính Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa đã tuyên bố như sau: “Tín
điều Mẹ Thiên Chúa là một mạch nước mầu nhiệm vô tận, tuôn ra mọi đặc ân cho
Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”.
- Đức Thánh Cha Phaolô VI đã đặt lễ
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01.01 là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế
giới. Trong tông huấn Marialis Cultus ngài đã viết: “Vì có sự trùng hợp giữa
ngày 01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh nên ngày đó được đặt làm
ngày cầu nguyện cho hoà bình thế giới, hầu thành quả của hoà bình có điều kiện phát
sinh trong lòng nhiều người”.
- Công đồng Vaticanô II (1962-1965) trong
Hiến chế Tín lý về Hội Thánh cũng đã khẳng định: "Từ muôn đời, Đức Trinh
Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi
Lời Thiên Chúa ... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ
được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên
Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp
nhất với Chúa Kitô".
2) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG KẺ GẶP NGUY
KHỐN
Trưa ngày 12/10/1972, một chiếc
phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô
nước Chi-Lê thi đấu thể thao. Khi băng qua dãy núi Ăng-đét thì máy bay
bị trục trặc mất thăng bằng và lao xuống đất rất nhanh. Sau một
phút, nó đã đâm xuống lớp tuyết rất dày và bị vỡ ra nhiều mảnh. 28
học sinh may mắn còn sống sót. Một vài cậu chỉ mặc một chiếc áo
khoác thể thao trên người. Một số khác thì mặc áo tay dài. Không ai
mang theo quần áo lạnh thích hợp với vùng thời tiết lạnh giá 20 độ
dưới số không.
Khi màn đêm buông xuống, 28 học
sinh sống sót kia ngồi tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay còn
sót lại. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn một ít thức phẩm gồm có các
loại thịt nguội, bánh mì và rượu vang… khiến họ hy vọng nhờ đó sẽ
có thể sống thêm được một thời gian. Ngoài ra họ cũng có một chiếc
ra-đi-ô cát-xét vẫn còn dùng tạm được. Cũng nhờ chiếc ra-đi-ô này mà
họ đã hiểu biết công cuộc cứu hộ đang được triển khai sau khi phi cơ
của họ lâm nạn, tại các quốc gia trong vùng máy bay bị rơi như Chi-lê,
Ác-hen-ti-na và U-rơ-guây. Sau tám ngày, họ nghe được các đoàn cứu hộ
báo cáo do thời tiết xấu nên không thể tìm ra chiếc máy bay lâm nạn
và không hy vọng còn hành khách nào sống sót. Thế là các nạn nhân
này hiểu rằng: họ có sống và trở về nhà hay không là hoàn toàn
tùy theo sự may mắn và quyết tâm sống còn của họ mà thôi.
Ít ngày sau, thêm 12 người nữa
theo nhau qua đời vì bệnh viêm màng phổi do không chịu được tiết trời
băng giá khủng khiếp. Đoàn người lâm nạn chỉ còn 16 người. Bây giờ họ
chỉ biết trông chờ vào phép lạ. Cả 16 học sinh quyết định họp nhau
lại cầu nguyện mỗi buổi tối. Cứ vào khoảng 9 giờ tới, khi trăng bắt
đầu mọc trên triền núi, thì mọi người ngừng trò chuyện riêng và
người điều khiển giờ kinh lấy ra một cỗ tràng hạt, rồi cả bọn ngồi
quây quần thành hình vòng tròn cùng đọc kinh Mân Côi. Giờ kinh được
tiếp tục bằng lời cầu nguyện tự phát, các bài thánh ca và kết
thúc bằng kinh Hãy Nhớ, để xin Mẹ Chúa Trời đóai thương cứu giúp.
Những buổi cầu nguyện như thế trở thành nguồn động lực giúp các
học sinh hy vọng sẽ được cứu thoát.
Ngày qua ngày, thấm thoát đã
sang tuần lễ thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe
nhất trong bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi
cầu cứu. Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may
một cậu đã tìm thấy một cuộn dây thừng bằng ny-lông và trao cho hai
bạn dùng tạm làm sợi dây an toàn khi leo xuống. Hai cậu cũng đem theo
một ít lương thực cùng với búa và đinh. Họ bắt đầu tuột xuống vách
đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút thôi là cả hai sẽ bị rơi
xuống vực sâu. Mọi người đều hợp ý cầu xin Mẹ Ma-ri-a giúp hai bạn leo
xuống đến nơi an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống được đến một
trạm kiểm soát ở con đường dưới núi, và chỉ sau vài tiếng đồng hồ,
đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện bay lên đỉnh núi cao
chót vót để cứu tất cả mười bốn học sinh còn lại. Chính nhờ sự
thành tín kêu cầu Đức Ma-ri-a, mà các học sinh này đã có thể sống
sót tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá lạnh, đang khi không ai trong các
thân nhân của họ dám hy vọng người thân của mình còn sống và sẽ có
ngày trở về nhà. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu học sinh này
đã cảm nghiệm được điều này là: Đức Ma-ri-a không những là Mẹ Thiên
Chúa, mà còn là Mẹ của mọi người tín hữu biết thành khẩn kêu xin ngài
bầu cử nữa.
3. SUY NIỆM:
- Thánh Phao-lô viết: “Khi thời
gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con
một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống
dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). Như
vậy, khi sinh hạ Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a cũng hạ sinh một nhân loại
mới. Vì Người là Mẹ của Chúa Giê-su là đầu nhiệm thể, nên cũng là
Mẹ của các phần chi thể là các tín hữu chúng ta. Hơn nữa, khi đứng
dưới chân thập giá, Mẹ Ma-ri-a lại được Chúa Giê-su trao cho sứ mệnh
làm Mẹ của môn đệ Gio-an, và sau đó Gio-an đã rước Mẹ về nhà mình
mà phụng dưỡng (x. Ga 19,26-27). Gio-an chính là đại diện cho Hội
Thánh được Chúa Giê-su trăn trối làm con Đức Mẹ. Cuối cùng, Mẹ Ma-ri-a còn
là trạng sư cầu bầu đắc lực cho các tín hữu chúng ta trước tòa phán
xét sau này.
- Trong tiệc cưới tại Ca-na, Mẹ
Ma-ri-a đã phát hiện bữa tiệc mới nửa chừng mà sắp bị hết rượu. Không
đợi cho đôi tân hôn phải van nài, Mẹ đã vội báo cáo cho Đức Giê-su và bảo
các gia nhân hãy vâng lời Chúa Giê-su dạy. Nhờ lời bầu cử đắc lực của
Mẹ, mà dù chưa tới giờ hành động. Chúa Giê-su đã nghe lời Mẹ xin nên
đã biến nước lã trở thành rượu ngon, giúp cho gia đình đôi tân hôn
khỏi xấu hổ trước các thực khách (x. Ga 2,1-11). Ngày nay Mẹ Ma-ri-a
cũng tiếp tục chuyển cầu cho các đôi vợ chồng trẻ có lòng tin cậy
nơi Mẹ, để giúp họ vượt qua những thử thách trong cuộc sống lứa đôi,
và làm cho tình yêu của họ dù có bị lạt như nước lã, cũng sẽ biến
thành nồng thắm như rượu hồng như ngày mới yêu nhau. Miễn là họ phải
mời Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến ngự trong gia đình như đôi tân hôn
thành Ca-na khi xưa.
4. THẢO LUẬN:
1) Thánh Gio-an xưa đã rước Mẹ Ma-ri-a về nhà mà
phụng dưỡng, chúng ta hôm nay sẽ làm gì để tỏ lòng biệt kính và
trở nên con ngoan hiếu thảo của Mẹ ? 2) Ngày nay khi gặp phải gian nan
thử thách, ta nên làm gì để được Đức Mẹ Chúa Trời trợ giúp giống
như đã trợ giúp đôi tân hôn trong tiệc cưới Cana xưa ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY MẸ MA-RI-A LÀ TỪ MẪU CỦA CON.
Mẹ là người có phúc hơn mọi người nữ vì mẹ luôn lắng nghe và thực hành Lời
Chúa. Xin Mẹ dạy chúng con biết noi gương Mẹ để sống theo lời Chúa. Xin cho các
gia đình chúng con siêng năng đọc và thực thi Lời Chúa như Mẹ. Xin Mẹ luôn hiện
diện trong gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, bất hòa đang làm mất đi
sự êm ấm trong gia đình. Xin nâng đỡ gia đình chúng con vượt qua những rủi ro bất
hạnh. Xin vực dậy niềm tin nơi những thành viên gia đình đang gặp khó khăn, noi
gương Mẹ xưa đã luôn tin cậy vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa.
- Lạy Mẹ Maria. Mẹ chính là sự
sống, sự ngọt ngào và là nguồn hy vọng của con. Lòai người chúng con
là con cháu A-Đam E-và đang bị lưu đày dưới thế gian là thung lũng đầy
nước mắt đang kêu lên cùng Mẹ. Con hướng về Mẹ là Mẹ hằng cứu giúp
mà than van kêu cầu. Xin Mẹ đoái thương an ủi nâng đỡ con. Để sau cuộc
đời lưu đày này và đến giờ chết, con sẽ được Mẹ dẫn đưa đến cùng
Chúa Giê-su Con yêu của Mẹ, để con được hưởng sự phán xét bao dung. Ôi Ma-ri-a,
Mẹ là Trạng Sư của con ! Ôi Trinh Nữ Ma-ri-a dịu hiền, xin luôn ở bên
con và đường bỏ con trong giờ sau hết. A-MEN.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM