ĐỨC
GIÊSU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ
(Gioan 20,19-31 – CN II PS – ABC)
1.- Ngữ cảnh
Dựa
theo bố cục tổng quát của TM Ga, đoạn văn này nằm trong chương 20 là
chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời
kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong
tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức
Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức
Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài
này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở
trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được
thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng
bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ
giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hiện ra với các
môn đê không có Tôma (20,19-23):
a)
Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng minh (cc. 19-20),
b)
Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng (cc. 21-23);
2) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (20,24-29):
a) Tôma không tin anh em (cc. 24-25),
b) Đức Giêsu và Tôma (cc. 26-31);
3) Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (20,30-31).
3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong
tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem
vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào
buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau,
rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm.
Rất có thể tác giả dùng từ ngữ “ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có
ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi
với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26).
Tác giả dùng công thức “Ngày thứ nhất
trong tuần” cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có
thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào
“ngày thứ nhất trong tuần” (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là “vì
các ông sợ người Do Thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân
thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín. Đây cũng có thể là một ghi
nhận về hoàn cảnh hiện tại của các môn đệ.
- Bình an cho anh em (19): Trong
tiếng Hípri, shâlôm (= bình an, HL eirênê) là một lời chào thông
thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa
khác, không phải chỉ là “Cầu chúc anh em được bình an”, như thể họ còn phải chờ
đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định
về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21):
Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc
24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề
tài thần học của Ga, xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ông... Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng
tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh
Thần. Trên thập giá, Người đã “trao Thần Khí” (paredôken to pneuma;
trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã
dịch là “trút hơi thở”) (19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người
đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh
hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng
các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai ...; anh em
cầm giữ ai... (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy Lạp
(Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6
LXX. Theo bản văn Hípri, vua Balác xác tín rằng “kẻ nào bị ông nguyền rủa thì
mắc họa/bị nguyền rủa” (Ds 22,6 Hípri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua
lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa
Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds
22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy Lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý
nghĩa có thể giải thích theo hai hướng: có thể hiểu “được phúc” (eulogêntai)
và “mắc họa/bị nguyền rủa” (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ
xảy ra trong tương lai gần (bản văn Hípri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo
nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc
phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền
rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: “Ngươi không được đi với
chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar
eulogêmenon)”. Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng
được chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã
đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông
không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai (“được
tha”) và kekratêntai (“bị cầm giữ”) ở Ga 20,23 có thể được hiểu
như thế.
- Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton kyrion, 25): Heôrakamen
là thì hoàn tất của động từ horaô, diễn tả việc “thấy” kèm theo sự hiểu
biết thật sự.
- Nếu tôi không thấy dấu đinh...
(25): Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu
cũng phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp
ứng yêu cầu của ông, Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin.
- Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin (27):
Dịch sát là “đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”. Đức
Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ.
- Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con (28): Đây vừa là một tiếng kêu vừa là một hô-cách dưới dạng
chủ-cách (= “Lạy Chúa và lạy Thiên Chúa của con!”) vừa là một lời tuyên xưng
đức tin (= “Ngài là Chúa và Thiên Chúa của con”) độc đáo chưa ai làm. “Chúa của
con” nhắm đến Đức Giêsu của lịch sử, còn “Thiên Chúa của con” là một lượng định
mang tính thần học về bản thân Người. Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đức Chúa” thì
Maria Mácđala và các môn đệ đều đã làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng vị “Chúa
tể” này là “Thiên Chúa”, thì chỉ có Tôma mới làm ở đây. Vì thế, cũng có thể
hiểu câu này là một phép thế đôi (hendiadys): “Chúa của con” cũng là
“Thiên Chúa của con”.
- là để anh em tin rằng (31): Bản văn Hy Lạp ghi “để anh em
tin” là hina pisteu[s]ête (với con chữ sigma nằm trong ngoặc
đơn), tức là có thể đọc hina pisteusête hoặc hina pisteuête. Cả
hai cách đọc đều có thể chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa rất khác nhau:
(1) Cách đọc thứ nhất, hina pisteusête
(subjunctive aorist): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em có thể đi
đến đức tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật là truyền
giáo. Những người nhận bản văn hẳn là những người ở bên ngoài cộng đoàn Kitô
hữu.
(2) Cách đọc thứ hai, hina pisteuête
(subjunctive present): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em tiếp
tục tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật chỉ là khuyến
thiện. Những người nhận bản văn hẳn là những người thuộc về cộng đoàn Kitô hữu.
Cho
dù cách hợp lý hơn là cách đọc thứ hai, ta cũng không thể chỉ vì có hoặc không
có một con chữ sigma (s) mà phân biệt để xác định rằng mục đích của tác
phẩm là truyền giáo hay không. Ta còn phải khảo sát tất cả các cách dùng liên
từ hina, rồi khảo sát cấu trúc văn chương tổng quát của tác phẩm. Dù
sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ càng hơn, ta có thể nghĩ rằng tác phẩm được
ngỏ với những người đã là Kitô hữu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong
cả hai lần Đức Giêsu hiện ra, thời gian là “ngày thứ nhất trong tuần”, “ngày
của Chúa”, ngày Chúa Nhật. Người chào các môn đệ với những lời như nhau, “Bình
an cho anh em!”. Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu
Phục Sinh tỏ mình ra cho các môn đệ của Người.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không
có Tôma (19-23)
Các môn đệ đang sống trong căn nhà cửa
đóng then cài, “vì sợ người Do Thái” (c. 19). Điều này hiểu được sau khi Đức
Giêsu qua đời, nhưng có lẽ cũng phản ánh hoàn cảnh của các môn đệ vào lúc Gioan
viết Tin Mừng. Nhiều lần, trong tác phẩm, ta thấy những ai thuộc về nhóm Đức Giêsu
đều sợ bị đuổi ra khỏi hội đường (x. 9,22).
Các môn đệ lúc này không còn là mười hai
nữa, mà là mười một, rồi đọc thêm nữa thì thấy chỉ còn có mười. Khi hiện ra,
điều đầu tiên Đức Giêsu làm là cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang
sống giữa các ông. Rồi Người nói: “Bình an (eirênê) cho anh em!” (c.
19). Không chỉ nói về bình an, Người còn cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời
của Người: các vết thương (tay [chân] và cạnh sườn). Vậy Người chính là Đấng đã
chết trên thập giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Không có sự buồn phiền khi
trông thấy các dấu vết của cuộc Thương Khó. “Các môn đệ vui mừng vì được thấy
Chúa” (c. 20). Chỉ có niềm vui bởi vì thời điểm tiêu cực cuộc cuộc Thương Khó
đã bị vượt qua. Các môn đệ vui mừng bởi vì Đức Giêsu vui mừng và chuyển thông
niềm vui cho họ. Các ông cũng vui mừng bởi vì Đức Giêsu đã hoàn tất sứ mạng của
Người.
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các
ông một lần nữa, rồi cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự
sống và quyền của Người là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong trường
hợp Maria Mácđala, bây giờ đến một loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức Giêsu nói
tiếp: “Như (kathos) Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c.
21). Chỉ là một chuyển động duy nhất: Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng
về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và
đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp
với Chúa Cha. Điểm này rất quan trọng: tất cả những gì các môn đệ làm, các ông
không tự mình mà làm, nhưng làm theo lệnh Đức Kitô.
Thế rồi để các ông chu toàn được sứ
mạng, Đức Giêsu ban cho các ông Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần” (c. 22). Chính Thánh Thần sẽ ban cho các môn đệ sức mạnh để làm chứng “ad
extra” (hướng ra bên ngoài). Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ cụ thể của ân ban
này là sự tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm
giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (c. 23). Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn
đệ sẽ tha tội và cầm buộc. Có dây liên kết rõ ràng giữa ân ban Thánh Thần và
quyền tha tội để xây dựng nội bộ cộng đoàn. Đều này nêu bật chiều kích “ad
intra” (hướng vào bên trong). Sứ mạng và sự tha tội đi chung với nhau và là hoa
trái của cùng một Thánh Thần do Đức Giêsu ban tặng.
Ở trong một thế giới đang làm cho
các ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x.
16,33) và được đầy sự bình an và niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho
các ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho
thế giới. Các môn đệ không được khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới,
nhưng phải đầy tin tưởng đi vào thế giới.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và
Tôma (24-29)
Khi Đức Giêsu đến, Tôma, một trong Nhóm
Mười Hai, không ở với các môn đệ. Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra
và được Người sai đi (cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng: “Chúng tôi đã được thấy
Chúa (heôrakamen ton kyrion)!” (c. 25). Đây không phải chỉ là lời chia
sẻ thông tin về một sự kiện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin: các ông
(“chúng tôi” , tương tự cộng đồng Hội Thánh) đã thấy Thầy, mà các ông gọi là
“Chúa” (danh xứng của Đức Giêsu sau Phục Sinh), và các ông đã hiểu, đã tin.
Nhưng Tôma không tin anh em; ông nêu ra những điều kiện: “Nếu tôi không thấy
dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn
tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (c. 25). Tôma muốn làm cho rõ ra là
Đấng Phục Sinh chẳng phải là ai khác, mà chính là Đấng đã chịu đau khổ và đã
chết, là đây không phải là một Giêsu khác, nhưng vẫn là Giêsu như trước đây.
Trách Tôma cứng tin, hay không hiểu gì cả, là quá đáng! Ông muốn có một kinh
nghiệm cá nhân, ông muốn chính ông đạt tới đức tin. Đức Giêsu đã chấp nhận các
điều kiện của ông. Người chấp nhận tỏ mình ra theo cách có thể giúp Tôma nhận
biết Người.
Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, và
cũng như lần trước, Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che chở. Rồi
Người ngỏ lời với Tôma. Làm sao Người biết những chuyện đã xảy ra? Chúng ta
không biết, vì bản văn không nói, nhưng khả năng hiểu biết này của Đức Giêsu
chứng tỏ rằng kể từ nay, Người hiện diện gần gũi với các môn đệ, cho dù về thể
lý, họ không nhìn thấy Người. Người bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy
nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (c. 27). Người cho
Tôma thấy những dấu chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng chứng minh
rằng Người là nguồn mạch ơn cứu độ. Có người cho rằng Tôma đã đưa tay chạm tới
Đức Giêsu. Hẳn là không cần như thế. Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu,
một lời tuyên xưng chưa hề có ai nói lên: “Lạy Chúa của con và là Thiên Chúa
của con” (c. 28). Ông đi theo một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng ông đã đến
gần Đức Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và
Thiên Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ. Quan hệ với Người có tính
vững bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa.
Sau đó, Đức Giêsu đã đưa ra một sự đối
lập giữa “thấy” (horaô) và “tin” (pisteuô) (cc. 8b.18.20b.25ab.27.29ab; x. 1,45; 4,50), và
nhìn đến các thế hệ tín hữu tương lai. Kể từ nay, chứng từ về kinh nghiệm mà
các môn đệ đã có về Đức Giêsu Phục sinh phải là động lực đưa moi người đến đức
tin, chứ không phải là kinh nghiệm về một cuộc hiện ra trực tiếp của Đấng Phục
Sinh hay về một thánh tích.
* Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức
Giêsu (30-31)
Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt
mục tiêu của công trình của Đức Giêsu và cho thấy, đối với những người không
được thấy, đâu là nẻo đường đưa tới đức tin. Các tín hữu hôm nay được mời gọi
tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết chúng ta với
Người, và nhờ Người là Chúa Con, chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa Cha.
Đó là sự sống đời đời.
Phải chăng ở đây có nguy cơ chủ quan?
Chính là xuyên qua tính chủ quan mà ta đạt được tính khách quan. Kinh nghiệm
đức tin của một người riêng lẻ phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của
cộng đoàn. Đức tin của một người tự nó không đủ. Chứng từ của cộng đoàn luôn
cần để bảo đảm cho đức tin của từng người. Tuy nhiên, đức tin của cộng đoàn
không bao giờ thay thế đức tin của từng người. Nếu TM IV có nhấn mạnh là
nhấn mạnh trên điểm này: chiều kích cá vị của tương quan với Đức Giêsu Phục
Sinh.
+ Kết luận
Chúng
ta có thể đọc bản văn trên đây như một bức tranh bộ đôi: trong tất cả các bài
tường thuật này, ta ghi nhận chiều kích cá vị trong tương quan với Đức Giêsu.
Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các
diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có
tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người
thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu
về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã
đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách
là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông.
Đã nhận được các lời chứng của các môn
đệ, kinh nghiệm của Tôma, các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín: quả thật,
Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa,
và hãy tin vào Người. Niềm tin nối kết họ với Người, và nhờ Người là Chúa Con,
các Kitô hữu được đưa vào hiệp thông với Thiên
Chúa Cha.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là
Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang
những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là “Con Chiên
đứng như thể đã bị giết” (Kh 5,6).
Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu
cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn
tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế,
biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
2.
Tôma, người hoài nghi, không bị cộng đoàn anh em khai trừ
vì thiếu đức tin. Mãi đến tám ngày sau câu nói “không tin”, Tôma vẫn
còn ở đó với các anh em. Vậy hôm nay, hãy tự hỏi, chúng ta có đủ
kiên nhẫn với những người hay chất vấn trong giáo xứ không? Vì muốn
mọi người trong cộng đoàn đều như nhau, chúng ta thường có thái độ
tẩy chay những người hay thắc mắc về lề luật và các quy định của
Giáo hội. Không những các môn đệ kiên nhẫn với Tôma, mà cả Chúa Giêsu
cũng kiên nhẫn với ông nữa. Khi Tôma gặp Chúa Giêsu, Người không quở
trách ông. Vì lời đầu tiên của Chúa Giêsu với các môn đệ và có Tôma
hiện diện là “Bình an cho anh em”. Rồi, Chúa Giêsu mới đưa bằng chứng
cho Tôma xem, “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà
đặt vào cạnh sườn Thầy”.
3. Tôma đã tuyên xưng đức tin vào Đức
Giêsu theo cách chưa ai làm: “Lạy Chúa của con và lạy Thiên Chúa của con”. Ông
đã đi theo con đường dài hơn con đường của các anh em, nhưng đã đến gần Đức
Giêsu hơn. Đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và là Thiên Chúa. Ông
tin, ông quy phục Đức Giêsu, ông bày tỏ niềm tin vào Người. Maria Mácđala cũng
như các môn đệ đã tin vào Đức Giêsu như là Đức Chúa. Tương quan của họ với
Người nay có giá trị vĩnh viễn và trọn vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy chính là Thiên
Chúa. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang tìm đến gần con người để ban cho con
người sự sống đời đời. Tôma nhận biết Đức Giêsu như thế và gắn bó với Người. Do
đó, người nào chỉ nói đến một Tôma thiếu lòng tin, là quên mất là ông đã
đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ giúp của Đức Giêsu. Thật ra các tông đồ đều
thấy tin vào sự Phục Sinh là điều không dễ chút nào!
4. Chúng ta thấy Đức Giêsu để cho mình
được nhận biết bởi bà Maria Mácđala, bởi người môn đệ Người yêu mến và bởi Tôma
theo cách khác nhau. Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng Gioan. Các “dấu
chỉ” hoặc các “bằng chứng”, được thích ứng với từng người. Đức Giêsu thuận theo
các đòi hỏi của mỗi người. Rồi Người đưa mỗi người đến với đức tin ở bên kia
các dấu chỉ ấy. Luôn luôn cần những dấu chỉ, nhưng cũng phải luôn luôn vượt qua
các dấu chỉ. Đàng khác, kinh nghiệm đức tin của mỗi người phải được đối chiếu
với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn.
5. Nghe lời “Phúc cho những người không
thấy mà tin”, chúng ta cảm thấy phấn khởi vì chúng ta đâu có được thấy Đức
Giêsu bằng xương bằng thịt! Nhưng tại sao lại “có phúc” có lẽ chúng ta nghĩ
rằng bởi vì tin dù không thấy thì khó hơn, nên có công trạng hơn. Thật ra, “có
phúc” là vì niềm tin này trung thực hơn, tinh trong hơn. Người nào thấy thì đã
có sự chắc chắn, có chứng cớ không thể chối cãi về một sự kiện, nhưng như thế
thì không phải là đức tin.
6. Hôm nay, ngày lễ “Lòng Thương xót
Chúa” mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng
ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska
(1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng
Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành,
bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng
trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương
Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức
Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!” Chúng
ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất, chia
sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.
Lm FX
Vũ Phan Long, ofm