CHÚA NHẬT 2
PHỤC SINH ABC
Cv 2,42-47; 1
Pr 1,3-9; Ga 20,19-31
CÙNG CHÚA PHỤC
SINH MANG LẠI NIỀM TIN YÊU CHO THA NHÂN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày
thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì
các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
“Bình an cho anh em !” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh
sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với
các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng
sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em
hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người
trong nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với
các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng
tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở
tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay
vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các Môn đệ
Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông.
Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
“Bình an cho anh em” (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào
đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã
thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin !” (30)
Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng
những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những
điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức
Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng thuật lại hai lần
Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ,
để chứng minh Người đã từ cõi chết trỗi dậy:
- LẦN THỨ NHẤT Chúa Giê-su đã
hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tô-ma. Người đã cho các ông xem các vết
thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi thổi hơi ban Thánh Thần cho các
ông (23).
- LẦN THỨ HAI sau tám ngày,
Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma và khi gặp Chúa
Tô-ma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giê-su đã chúc phúc cho những ai không
thấy mà tin ! (29)
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20: + Ngày
Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong
tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày
Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do
Thái Giáo là ngày hưu lễ, để noi gương Thiên Chúa đã làm việc sáng tạo trời
đất muôn vật trong sáu ngày, và ngày thứ Bảy thì Ngài nghỉ ngơi (x. St 1,1-2,2).
+
Đức Giê-su đến: Chúa Phục Sinh hiện đến Nhà Tiệc Ly khi cửa nhà vẫn
đóng kín, cho thấy thân xác của Người sau phục sinh mang đặc tính thiêng
liêng siêu việt, có khả năng hiện diện ở khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn
đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự
bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các Môn đệ (x Ga
14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa
Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18), và bị
lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa
hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23: + Như
Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”.
Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Người lại
truyền cho các Môn đệ và các tín hữu sau này. + Người thổi hơi vào các ông
và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi
thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam
và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng
thổi Thần Khí cho các Môn đệ. Rồi đến lượt các Môn đệ lại sẽ thông
truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì
người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”:
Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa,
Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một
người bại liệt, Đức Giê-su cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt
9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích Giải Tội,
ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho
các ông. Sau này các Giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông
chia quyền tha tội cho các linh mục là những cộng tác viên của mình.
- C 24-25: + Một
người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai
Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và
can đảm (x. Ga 11,16). Ông thường nêu ra thắc mắc để được Thầy giải thích
rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay
Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một
thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga
20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng
lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm cũng nói tới sự cứng tin của các
môn đệ: Matthêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Mác-cô
thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ
các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi
dậy” (Mc 16,14); Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại
hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38).
- C 26-27: + “Đặt
ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào
cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. +
Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy trách tội
cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông hãy
tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
- C 28-31: + Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống
lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng một đức tin đầy đủ nhất: Đức Giê-su
vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). +
Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh
của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa
Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các Tông đồ (x.
Ga 19,35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết
vì niềm tin vào mầu nhiệm ấy.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần
làm ngày Chúa Nhật thay vì Thứ Bảy (Sa-bát) như đạo Do thái ? 2)
Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi
cửa đóng kín cho thấy thân xác sống lại của Chúa có đặc tính gì ? 3)
Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì ? 4) Khi cho môn
đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5)
Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc nào
? 6) Đức Giê-su thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ nhằm mục đích gì ? 7)
Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người trao
quyền ấy cho Hội Thánh vào lúc nào ? 8) Tin Mừng cho biết gì về Tông đồ
Tô-ma ? 9) Các Tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm Phục
Sinh không ? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để
thỏa mãn đòi hỏi của ông Tô-ma ? 11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức
tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng như thế nào ? 12) Ngày nay các tín hữu
cần dựa vào bằng chứng nào để tin vào mầu nhiệm Phục Sinh? 13) Sự cứng
lòng của Tô-ma và của các Tông đồ có giá trị ra sao đối với đức tin
của các tín hữu hôm nay ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Những điều đã được chép ở đây là
để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em
tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ «QUÊN MUÔN OÁN VÀ GHI NHỚ
MUÔN ƠN»:
Tác giả Ron Lee đã viết một câu
chuyện trong cuốn "Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha
thứ" như sau: Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông
luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối
nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Ngày nọ, nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ
thường được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không
tin, muốn thử bà nên nói: « Lần sau nếu còn gặp Chúa thì bà hỏi Ngài xem,
tôi đã phạm tội gì nhé? » Mấy ngày sau gặp lại bà, vị linh mục đã hỏi bà xem
Chúa đã nói gì? Bà trả lời: « Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa! »
Còn chúng ta hôm nay cần làm gì để
noi gương Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót.
2) LÀM CHỨNG CHO CHÚA BẰNG VIỆC SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ
DANH CHÚA :
Tờ báo TIẾNG GỌI (L’Appelle) đã
thuật lại một câu chuyện thật cảm động như sau: Một bà góa nghèo có
một cậu con trai 16 tuổi đang học làm thủy thủ trên một tàu buôn chở
hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ
có cậu bé này là còn có đức tin vào Chúa.
Cậu bé được bà mẹ đạo đức
khuyên dạy con rằng: “Chúa đặt con trên con tàu này là để cho con có dịp
làm chứng cho Người”. Do đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng
thì giờ rảnh rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc
mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để
chơi bời sa đọa, thì cậu ta đều cố ngăn cản bằng cách này hay cách
khác. Nhưng không những họ không chịu nghe cậu, mà nhiều khi còn chế
diễu nhạo báng cậu: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện tạ ơn Chúa trước
khi ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn của cậu giấu đi chỗ khác. Khi
cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát tục tĩu
để chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người cậu. Để đáp
lại, cậu thiếu niên chỉ mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa cho họ.
Một lần kia khi đang làm việc
trên boong tàu, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy
bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau
quăng cậu xuống biển. Thấy cậu bơi lại gần con tàu thì họ lại dùng
cây sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu đã bị yếu sức dần.
Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét
to rằng: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa Giê-su thì các bạn sẽ được
cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi đã được chịu chết vì
danh Chúa Giê-su !” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa
cậu lên boong tàu làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau cậu tỉnh dậy.
Thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi
họ đừng phạm tội nữa, nhưng hãy quay trở về với Chúa. Kết quả là
sau đó toàn thể các thủy thủ trên tàu đều rất xúc động trước tấm
gương can đảm trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối xuống
cầu nguyện và tuyên xưng đức tin, đồng thời ăn năn sám hối để xin ơn
Chúa tha thứ tội lỗi cho mình.
3. THẢO LUẬN:
Cậu bé trên đã bất chấp nguy hiểm, can đảm trung
thành với Chúa để làm chứng về Chúa, nên sau nhiều gian nan thử
thách, cậu đã thành công. Để chu toàn sứ mệnh được sai đi, bạn cần
làm gì để giúp những người chưa tin nhận ra tội lỗi để hồi tâm sám hối
và theo làm môn đệ Chúa Giê-su ?
4. SUY NIỆM :
1) Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với các
môn đệ trong cuộc sống:
- Chúa Giê-su Phục Sinh không bị giới hạn trong không
gian: Người có thể xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Chẳng hạn: Hiện ra với bà
Ma-ri-a Mác-đa-la ở gần ngôi mộ đã an táng Người; Hiện ra với các môn đệ tại nhà
Tiệc Ly khi cửa đóng kín vì sợ người Do thái; Hiện ra với hai môn đệ trên con đường
dài 11 cây số từ Giê-ru-sa-lem về làng Em-mau; Hiện ra với các môn đệ trên bờ
hồ Ga-li-lê, sau khi các ông nghe tin nhắn và đang chài lưới bắt cá; Về sau,
Người còn hiện ra tại cửa thành Đa-mát xứ Sy-ri-a, khi Sau-lô mang quân đến bắt
các tín hữu.
- Chúa Giê-su Phục Sinh cũng không bị giới hạn trong thời
gian: Người xuất hiện với bà Ma-ri-a lúc sáng sớm khi trời còn tối. Người hiện
ra bên bờ hồ với các môn đệ khi ánh bình minh đang ló rạng. Người hiện ra trong
nhà Tiệc Ly vào buổi chiều ngày Thứ Nhất khi mới phục sinh. Người xuất hiện trên
đường đi làng Em-mau lúc chiều tối. Đối với các tín hữu chúng ta, Chúa Phục
Sinh luôn đồng hành trong mọi lúc mọi nơi. Người có thể xuất hiện qua những
người chúng ta gặp hằng ngày ở giữa đời thường: Người có thể là người làm vườn
khi hiện ra với Ma-ri-a Mác-đa-la; là một khách bộ hành đi cùng đường với hai
môn đệ về lang Em-mau; là một người rành về nghề bắt cá khi chỉ dẫn thành công
cho các môn đệ đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con nào. Người xuất hiện để
đánh tan sự nghi ngờ của ông Tô-ma.
2) Chúa Phục
Sinh ban ơn bình an và niềm hy vọng cho các môn đệ:
- Mỗi lần hiện ra, Chúa Phục Sinh đều chào chúc bình an
như sau: "Bình an cho anh em". Rồi cũng như khi sáng tạo A-đam thời
kỳ sáng thế, Chúa Phục Sinh cũng thổi hơi ban sự sống cho các môn đệ đang bị
chết về đức tin mà nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần". Chính Thần
Khí của Chúa Phục Sinh sẽ dần mạnh mẽ lên cho đến lễ Ngũ Tuần thì trở thành Cơn
Gió Lốc ào vào nhà các môn đệ mở tung cửa ra, làm cháy lên lửa tin yêu trong
lòng các ông và đẩy các ông đi rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh khắp thế gian
để ban ơn cứu độ muôn người.
- Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Ma-ri-a Mác-đa-la đang buồn
bã trở nên vui tươi phấn khởi đi báo tin vui cho các anh em Chúa; Các môn đệ đang
sợ hãi ẩn trốn trong nhà Tiệc Ly lấy lại được sự bình an; Hai môn đệ làng Em-mau
đang u sầu tuyệt vọng trở nên nhiệt tình hăng say quay về Giê-ru-sa-lem báo tin
cho các anh em; Các môn đệ đang mệt mỏi rã rời sau một đêm chài lưới vất vả vô
ích, lập tức được hồi phục sức lực; Tô-ma đang tâm trạng nghi nan bối rối lấy
lại niềm tin khi tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
3) Chúa Phục
Sinh đã sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng:
- Chúa Phục Sinh chính là Tin Mừng lớn lao mang lại ý
nghĩa cho cuộc đời các môn đệ, nên họ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao
đó: Ma-ri-a Mác-đa-la sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã lập tức chạy về loan tin
cho các môn đệ, thúc bách hai ông là Phê-rô và Gio-an chạy đua đến mộ để xem sự
thể ra sao, và hai ông đã đạt tới đức tin; Hai môn đệ làng Em-mau lập tức trở
về Giê-ru-sa-lem loan báo tin vui cho các anh em; Và sau này, Sau-lô sau khi bị
ngã ngựa, đã gặp Chúa Phục Sinh và trở thành thánh Phao-lô, vị tông đồ dân
ngoại hăng say loan báo Tin Mừng không mệt mỏi…
- Có thể nói: Tất cả những người đã gặp Chúa Phục Sinh
đều trở thành sứ giả đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người, đều sẵn sàng
lấy máu mình làm chứng cho lời mình rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh chính là
một Tin Mừng không thể không chia sẻ cho mọi người.
4) Loan báo
Tin Mừng chính là làm chứng về lòng Chúa thương xót:
- Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã ra lệnh truyền cho
các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19-20). Loan báo
Tin Mừng chính là làm chứng nhân của Chúa dưới ơn phù trợ của Thánh Thần như
lời Chúa Phục Sinh: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự
xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem,
trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
- Lệnh sai đi loan báo Tin Mừng làm chứng nhân của Chúa
Phục Sinh không thể không thi hành, như thánh Phao-lô nói: "Khốn cho tôi
nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1 Cr 9,16). Hôm nay Chúa Phục Sinh cũng
đang ở bên chúng ta trong mọi thời gian: từ khi mới chào đời đến tuổi thanh
niên, từ tuổi trung niên đến giờ chết của mỗi người. Chúa Phục Sinh vẫn luôn ở
bên chúng ta mọi nơi mọi lúc: Tại nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải
trí, trong gia đình, tại khu xóm. Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui
buồn của cuộc đời của chúng ta… Chỉ cần dừng bước là chúng ta có thể gặp được
Người đang hiện thân nơi người bên cạnh, nhất là nơi những người đau khổ bệnh
tật nghèo đói vật chất cũng như tinh thần. Chúng ta sẽ đối xử thế nào với Người
để có được sự bình an, có sự sống dồi dào trong tình thương của Chúa…
- Hôm nay là Chúa Nhật 2 Phục Sinh, kính nhớ lòng Chúa thương
xót, Hội Thánh mời gọi chúng ta ý thức thân phận tội nhân của mình, đã được
Chúa Giê-su chịu chết đền tội thay và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng
ta. Chúng ta cũng phải thể hiện lòng thương xót tha nhân noi gương Chúa Cha
trên trời là Đấng giàu lòng từ bi đã thể hiện lòng thương xót đối với chúng ta.
Chúa đang cần có thêm những người tốt để Ngài có thể tha thứ thế giới tội lỗi,
giống như tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã cầu xin Đức Chúa tha tội và không giáng phạt
dân thành Sô-đô-ma, bằng việc tìm ra những người công chính trong thành. Cuối
cùng do không tìm được đủ 10 người công chính, nên thành Sô-đô-ma đã bị lửa
sinh diêm từ trời rơi xuống tiêu diệt. Hôm nay, cùng với thánh nữ Faus-ti-na, chúng
ta cũng dâng lên Thiên Chúa những đau khổ chúng ta đang phải chịu, như của lễ đền
tội, để xin Chúa tha tội loài người. Chúng ta cũng không quên dâng lên Chúa bản
thân chúng ta, gia đình chúng ta và cả nhân loại để Ngài dủ lòng thương xót tha
thứ và biến đổi thế giới chúng ta đang sống sớm nên “Trời Mới Đất Mới” đẹp lòng
Ngài.
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã sống
đến cùng cuộc Vượt Qua của Chúa: Vượt qua đau khổ sự chết để được
vào vinh quang sống lại. Xin cho chúng con biết sống mầu nhiệm Vượt
Qua mỗi ngày: Vượt qua những sự ích kỷ, nhỏ nhen và những đam mê đang
kéo ghì chúng con xuống bùn đen tội lỗi, vượt qua những nỗi sợ hãi
khổ đau và nhục nhã. Vượt qua những nỗi khắc khoải đa nghi và những
thành kiến không tốt về người khác.
- LẠY CHÚA. Chính sự phục sinh
của Chúa động viên chúng con vui mừng và can đảm vượt qua những mất
mát thua thiệt gặp phải trong cuộc sống. Ước gì chúng con biết noi
gương Chúa : luôn gieo rắc sự bình an và niềm hy vọng khắp nơi, gieo
rắc sự an ủi cho những người bệnh hoạn tật nguyền, gieo tình thương
và cơm bánh cho những người cô đơn đói khát. Gieo lòng thương xót cho các
người đang lạc xa Chúa để họ mau trở về với Chúa. Nhờ đó, thế giới này sẽ
trở nên « Trời Mới Đất Mới » đầy tình thương, bình an và
hạnh phúc theo thánh ý Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM