sỰ hiỆp thông bỀn vỮng
(Gioan 14,1-12
– CN V PS - A)
1.-
Ngữ cảnh
Trong khối
từ ch. 13 đến ch. 17 của TM Ga,
tức phần đầu của “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (ch. 13–20), có ba Diễn từ cáo
biệt: (1) 13,31–14,31; (2) 15,1–16,33; (3) 17,1-26. Bản văn chúng ta đọc trong
Phụng vụ hôm nay thuộc về Diễn từ thứ nhất. Đức Giêsu sắp ra đi; Người nói
những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa
phản bội (13,21-30). Bài Diễn từ thứ nhất (13,31–14,31) có hình thức là một cuộc
đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ, được triển khai thành năm điểm
(13,31-36a; 13,36b-38; 14,2-6; 14,7-14; 14,15-24), điểm này bổ túc cho điểm kia
và mỗi điểm gồm ba thì. Mỗi lần, Đức Giêsu bắt đầu bằng một lời khẳng
định huyền bí diễn tả bằng những từ ngữ có hai nghĩa khiến các môn đệ không
hiểu: họ liền đặt câu hỏi. Câu hỏi này tạo cho Đức Giêsu cơ hội để tái khẳng
định và xác định tư tưởng của Người bằng cách nâng các môn đệ lên bình diện mầu
nhiệm bản thân Người và mầu nhiệm công trình Người. Đây là cách viết tiêu biểu
các tác giả Ga, nhằm nói rằng: bỏ mặc
cho sức riêng, chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của các biến cố và mầu
nhiệm Đức Giêsu.
Bài Diễn
từ được dùng để trả lời cho những vấn đề gây nên bởi sự ra đi này, tức những
vấn đề sẽ xảy ra cho các môn đệ, chứ không phải là những vấn đề sẽ xảy ra cho
Đức Giêsu (cuộc tôn vinh Người chỉ được nhắc qua thôi).
Bản văn
của chúng ta thuộc về các điểm thứ ba và thứ tư của bài Diễn từ, trong đó Đức
Giêsu trấn an các môn đệ, bảo rằng các ông sẽ không bao giờ bị chia lìa với
Người. Người sẽ trở lại và đưa các ông đi với Người. Tuy nhiên, chúng ta sẽ
thấy: vấn đề cốt lõi được nêu ra trong chương này cũng như trong suốt TM Ga chính là “đức tin”.
Phải nói
là một trong những điểm độc đáo của TM IV
là tầm nhìn thần học được triển khai trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga
14–16). Vào lúc rời xa các môn đệ, Đức Giêsu tự hỏi về ý nghĩa của việc Người
sắp biến mất. Nói chính xác hơn, đứng trước cuộc chia ly đang tới, Người đề cập
đến vấn đề tương lai của công việc mạc khải, do chỗ Người vừa là Đấng mạc khải
vừa là nội dung của mạc khải, lại sắp biến mất khỏi sân khấu lịch sử. Nói một
cách nghịch lý, số phận trần thế của Đấng mạc khải phải chấm dứt, thì công cuộc
mạc khải mới đạt tới điểm hoàn tất.
2.-
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu trấn an các môn đệ (14,1);
2) Mạc khải về Nhà Cha và đường về (14,2-6);
3) Mạc khải về sự duy nhất Cha–Con (14,7-12 [14]).
Bản văn
này nếu được đọc tới hết c. 14 thì hẳn là trọn nghĩa hơn.
3.-
Vài điểm chú giải
- Anh em đừng xao xuyến (1): dịch sát là “trái tim (kardia, số đơn) của
anh em đừng xao xuyến”. Ngược lại với lối sử dụng của hy-ngữ và La-tinh, Tân Ước theo cách dùng A-ram và Híp-ri,
sử dụng một số đơn có nghĩa toàn thể. Trong Cựu Ước và các TMNL,
“trái tim” thường là cơ quan lấy các quyết định, còn trong phần lớn các lần Ga sử dụng, từ ngữ này có một vai
trò tình cảm (x. Ga 14,27; 16,6.22).
- Hãy tin vào Thiên Chúa (1): Trong tiếng Hípri, từ ngữ chỉ “đức tin” là ’mn,
hàm ý có sự vững vàng, chắc chắn. Tin vào Thiên Chúa là thông dự vào sự vững
chắc của Ngài.
- nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn
chỗ cho anh em (2): Câu này có thể hiểu theo các cách sau đây tuỳ chúng ta hiểu là câu
khẳng định hay câu hỏi, và hiểu hoti là “rằng/là” hay là “bởi vì”.
(1) nếu không, Thầy đã nói
với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ ...
(2) nếu không, lẽ nào Thầy
lại nói với anh em, vì Thầy đi dọn chỗ ...?
(3) nếu không, Thầy đã nói
với anh em rằng/là Thầy đi dọn chỗ ...
(4) nếu không, lẽ nào Thầy
lại nói với anh em rằng/là Thầy đi dọn chỗ ...? (NAB; Traduction
officielle pour la liturgie; TOB; NTT). Có lẽ cách này hợp lý nhất.
(5) nếu không, Thầy đã nói
với anh em rồi; Thầy đi dọn chỗ ... (Brown; BJ).
- Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống (6): Chúng ta ghi nhận là trong Sách các Dấu lạ, từ ngữ zœ¢,
“sự sống”, được dùng 32 lần, trong khi chỉ có 4 lần trong Sách về Giờ. Tác giả Ga muốn nói là vào lúc này, “giờ” đã
gần, sự sống hiện đang được trao ban, nên không cần phải nói đến nữa.
Các từ ngữ
“con đường”, “sự thật”, và “sự sống” liên hệ với nhau thế nào? Có hai loại giải
thích:
A. Các
giải thích cho thấy con đường hướng về một mục tiêu là sự thật
và/hay sự sống: (1) Đa số các Giáo Phụ Hy Lạp, thánh Ambrôsiô và thánh
Lêô Cả hiểu con đường và sự thật đưa đến sự sống (vĩnh cửu trên trời).
Maldonatus cho rằng sự thật chỉ là một tính từ mô tả con đường (“con
đường thật”). (2) Thánh Clêmentê Alexandria, Âutinh và đa số các Giáo Phụ
La-tinh hiểu là con đường đưa tới cả sự thật và sự sống, và đây là hai thực tại
cánh chung, thần linh. Thánh Tôma Aquinô cho rằng Đức Kitô là con đường thể
theo nhân tính của Người, nhưng là sự thật và là sự sống thể theo thần tính của
Người. (3) Có những tác giả hiện đại nói rằng nơi Đức Giêsu, các môn đệ gặp
được Đấng Cứu Thế của họ, nên con đường không có nghĩa không gian và không tách
biệt với mục tiêu là sự thật và sự sống. Con đường của họ đã là mục tiêu của họ
rồi. Sự thật là thực tại thần linh được tỏ hiện ra, còn sự sống là thực tại ấy
nay được loài người chia sẻ.
B. Các
giải thích cho thấy con đường là từ ngữ chính, còn sự thật và sự
sống là những giải thích cho con đường. Đức Giêsu là con đường bởi vì Người
là sự thật và sự sống (De la Potterie, Bengel, B. Weiss, Schlatter, Strathmann,
W. Michaelis, Tillman, Van den Bussche). Nói rằng “con đường” là từ chính trong
c. 6, điều này được gợi ra bởi sự kiện Đức Giêsu tái khẳng định câu nói của
Người về con đường ở c. 4, để trả lời cho câu hỏi của Tôma về con đường ở c. 5.
Hơn nữa, chi câu sau của c. 6 bỏ qua một bên sự thật và sự sống mà tập
trung vào Đức Giêsu như là con đường: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua
Thầy”. Cách nhìn này dường như hợp lý nhất.
- đến với Chúa Cha (6): Đây là mục tiêu của “con đường”.
- đã thấy Người (7): Ở đây và ở c. 9, động từ là heôrakôs (ptc pf của horan); ở 12,45, cũng tư tưởng này lại được diễn tả bằng theôrôn (ptc pres của theôrein). Cả hai đều nói đến một cái
nhìn thiêng liêng.
4.-
Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ rằng Người sẽ ra đi
và sự hiệp thông đời sống của các ông với Người đã đến lúc kết thúc. Phải chăng
đây là một chỉ là một lúc “nghỉ chuyển hồi” (entr’acte) ngắn, một tình bạn vui tươi, khuyến khích người
ta mỗi khi nhớ lại, nhưng sẽ bị cắt ngang và chấm dứt với cái chết của Đức
Giêsu? Vào lúc cáo biệt, Đức Giêsu phải giải thích cho các môn đệ rằng Người
không bao giờ rời xa họ, nhưng Người ra đi là để thiết lập một liên hệ
còn bền chặt hơn.
* Đức Giêsu trấn an các môn đệ (1)
Đức Giêsu nói ngay đến thái độ căn bản mà các môn đệ phải
có để đương đầu được với tình trạng xa cách, tức sự kiện Người chết trên thập
giá và họ sẽ không thấy Người hiện diện hữu hình giữa họ nữa: “Anh em đừng xao
xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy!” (Ga 14,1). Lời khuyến khích này không chỉ có giá trị cho các môn đệ
có mặt hôm ấy mà thôi, nhưng cho tất cả những ai sau đó sẽ tin vào Người. Các
môn đệ không được để cho mình bị hoang mang lo lắng, mất sự cương quyết và bình
tĩnh. Chính ngay bây giờ các ông phải đặt được nền móng vững chắc nhất và tìm
sự nâng đỡ không lay chuyển nơi Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu. Chỉ nhờ đứng vững
trong niềm tin, các ông mới có thể đương đầu với hoàn cảnh này. Đức Giêsu đã
nói nhiều lần đến đức tin như lời đáp lại các dấu lạ Người làm và như nẻo đường
đưa tới sự sống đời đời. Chính bây giờ, khi mà các ông không còn thấy Người
nữa, đức tin của ông phải được vận dụng. Vì không thấy, các môn đệ sẽ phải ký
thác với lòng tin tưởng không giới hạn vào Chúa Cha và Chúa Con, bằng cách xây
dựng mọi sự trên các Đấng.
* Mạc khải về Nhà Cha và đường về (2-6)
Việc Đức Giêsu ra đi không phải là một sự xa cách
vĩnh viễn, nhưng nhằm đưa họ đến chỗ kết hợp muôn đời với Người. Đối với chính
Đức Giêsu, cái chết của Người không phải là điểm chấm hết của con đường, nhưng
lại là cánh cửa mở rộng ra với con đường ấy; cái chết của Người là việc trở về
nhà Cha (Ga 13,1). Đức Giêsu đang
tiến đến cái chết lại là Đấng đang nói: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự
sống” (14,6). Khi đã được nâng cao và tôn vinh, Người sẽ mãi mãi ở trong sự
hiệp thông hoàn hảo với Chúa Cha. Nhưng cả các môn đệ cũng có quê hương vĩnh
cửu, và quê hương này không phải ở trên trái đất, nhưng là ở bên Thiên Chúa:
“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (13,2). Đức
Giêsu ra đi không phải để bỏ rơi họ, nhưng dọn chỗ cho họ bên Chúa Cha, để đưa
họ đi với Người và sống trong sự hợp nhất vĩnh cửu với họ. Hiểu như thế, dứt
khoát là các ông không được chỉ đăm đăm nhìn vào sự việc Đức Giêsu bị chết như
thế và không còn ở với các ông nữa; nhìn biến cố Thương Khó như thế là lạc
hướng! Các ông phải dùng đức tin mà thấy chỗ tận cùng, nghĩa là thấy rằng tất
cả những gì Đức Giêsu đã làm đều nhắm đến chỗ cho họ được hiệp thông với Người
và với Chúa Cha.
Những điều nói trên có thể khiến người ta nghĩ rằng các
môn đệ hoàn toàn thụ động và chờ Đức Giêsu dẫn họ về với Chúa Cha. Tuy nhiên,
họ không được ở trong thế bất động, nhưng cũng phải chuyển động: “Thầy đi đâu,
anh em đã biết đường rồi” (Ga 13,4).
Khẳng định này đưa Tôma đến một thắc mắc (“Thưa Thầy, chúng con không
biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”, 13,5), khiến chúng ta
nhạn được một mạc khải đặc biệt của Đức Giêsu. Người dạy cho các ông biết con
đường đưa đến với Chúa Cha: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (13,6). Các môn đệ không phải chỉ
chờ Đức Giêsu dẫn về với Chúa Cha; chính các ông phải lên đường. Tuy nhiên, con
đường lại vẫn là Đức Giêsu. Ngay trong dụ ngôn người mục tử nhân hậu, Người đã
nói: “Chính tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (10,9). Là con
người, chúng ta không thể tự cứu mình khỏi sự hư hoại; y như thể có một bức
tường không thể chui qua hay vượt qua đang ngăn cản chúng ta. Nhưng có một cái
cửa, một lỗ hổng duy nhất trong bức tường, một nẻo đường duy nhất
đưa tới ơn cứu độ: chính Đức Giêsu. Ơn cứu độ hệ tại sự hợp nhất với Thiên
Chúa. Cũng như Người là cửa duy nhất, Đức Giêsu cũng là con đường duy nhất dẫn
đến với Chúa Cha, trong tư cách Người là sự thật và sự sống. Người là “sự thật”
có nghĩa là chỉ nhờ Người, ta mới có thể biết mầu nhiệm Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm
trung tâm của Kitô học Gioan (x.
2,19-21; 6,51-53; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 16,16-19).
* Mạc khải về sự duy nhất Cha–Con (7-12 [14])
Chỉ nhờ Người, trong thực tại là Con Thiên Chúa, chúng ta
mới được mạc khải cho biết Thiên Chúa quả là Cha và Người sống từ muôn đời
trong sự hiệp thông yêu thương và bình đẳng với Người Con này (1,18). Người là
“sự sống”, có nghĩa là chúng ta có được hợp nhất với Thiên Chúa Cha, tức là có
sự sống vĩnh cửu đích thật, chỉ nhờ hợp nhất với Đức Giêsu. Không ai trong
chúng ta là con người, chỉ nhờ sức riêng, mà có thể đạt tới Thiên Chúa trong
thực tại đích thực của Ngài là Cha. Chỉ nhờ Đức Giêsu mà chúng ta được biết
Chúa Cha và được kết hợp với Ngài.
Cũng như mỗi lần Người xác định bản thân bằng công thức Thầy/Ta
là, ở đây cũng vậy, Đức Giêsu cho chúng ta thấy là nơi Người, Thiên Chúa
đang hiện diện như là Đấng ban ơn cứu độ cho chúng ta. Ân ban lớn lao mà Thiên
Chúa trao cho chúng ta và ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta biết, đó là chúng ta
có thể đến với Ngài. Đối với chúng ta, Thiên Chúa là Đấng ẩn mình và vô phương
đạt tới, nhưng Ngài không loại trừ việc chúng ta có thể đi đến với Ngài. Nơi
Chúa Con, Thiên Chúa ban cho chúng ta cái cửa và con đường, khiến chúng ta có
thể kết hợp với Ngài. Chính Ngài hiện diện với chúng ta trong thực tại chân
thật của Ngài, chứ không phải nhờ trung gian là các ân huệ đủ loại mà không phải
là chính Ngài.
Trong câu trả lời cho Philípphê, Đức Giêsu giới thiệu cho
thấy rõ ràng Người là con đường đưa tới Chúa Cha theo cách nào. Philípphê đã
xin Người: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn
nguyện” (Ga 14,8). Chắc chắn ông đang
nghĩ đến một cuộc thần hiển, một thị kiến trực tiếp về Thiên
Chúa, một kinh nghiệm phi thường về Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không
phải là “con đường” theo nghĩa là Người truyền đạt các hiện tượng và kinh
nghiệm đặc biệt theo loại này. Ngược lại, Người là con đường theo cách các môn
đệ đã trải nghiệm cho đến nay, bằng lời nói và các việc làm, bằng đời sống
chung với các ông. Để có thể đi trên con đường này, điều kiện duy nhất là có
đức tin. Với những ai có cái nhìn đức tin, Người bảo: “Ai thấy Thầy là thấy
Chúa Cha” (14,9). Ai nhờ đức tin mà nhìn nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì
tức khắc nhờ đức tin đạt tới Chúa Cha. Chỉ đối với ai tin vào Người, Đức Giêsu
mới là con đường, và sẽ tiếp tục là con đường cả khi Người không còn hiện diện
hữu hình giữa các môn đệ. Các môn đệ và tất cả những ai tin nhờ chứng từ của
các môn đệ có thể nhờ đức tin mà đạt tới Người, và nhờ Người, đạt tới Chúa Cha.
Trong câu trả lời sau đó cho Philípphê, Đức Giêsu cung
cấp lý do cho thấy vì sao ai tin vào Chúa Con thì thấy Chúa Cha và đến được với
Chúa Cha. Chúa Con ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Chúa Con (cc. 10-11):
Chúa Cha và Chúa Con được liên kết với nhau hoàn toàn nên một và sống
nên một như thế, có tất cả mọi sự chung với nhau. Không bao giờ Chúa Con
lại không kết hợp hoàn toàn với Chúa Cha, và chẳng bao giờ Chúa Cha lại thôi
kết hợp cách hoàn hảo với Chúa Con. Do đó ai ngắm nhìn Chúa Con với niềm tin
thì thấy Chúa Cha nơi Người và nhờ Người.
+ Kết luận
Tại sao
Phụng vụ lại đề nghị bản văn từ biệt này (Ga
14,1-12) cho chúng ta đọc và suy ngẫm sau lễ Phục Sinh? Là vì một ý muốn chỉ
được đọc và thi hành sau cái chết của người viết ra. Những lời Đức Giêsu nói
trong bữa tối cuối cùng được ngỏ với các môn đệ mọi thời.
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh
em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy” (14,2-3). Chỉ trong tư cách Đức
Giêsu là Con Một ngang hàng với Thiên Chúa, Người mới là khung cửa và là con
đường dẫn đến với Chúa Cha. Tất cả những con đường khác không thể đưa chúng ta
đến đích được. Chúng ta không thể đạt tới Chúa Cha nhờ bất cứ một hướng
dẫn viên nào khác, hoặc nhờ thực hành việc suy gẫm, hoặc nhờ những kỹ thuật
thiêng liêng hay những phương pháp, hoặc nhờ bất cứ phương tiện nào ngoài Đức
Giêsu. Chỉ nhờ Người, chúng ta mới có được sự hiểu biết về Thiên Chúa và được
kết hợp với Thiên Chúa trong chính thực tại của Thiên Chúa là Cha.
Phải nói rằng lộ trình Đức Giêsu phải theo gồm có cả việc
Chúa Cha sai phái Người đi lẫn việc Người trở về với Chúa Cha, và chỉ cuộc trở
về này mới làm cho công cuộc mạc khải đạt tới hình thái hoàn thành.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu là người thật, giống như chúng ta trong mọi
sự, ngoại trừ tội lỗi, lại đồng thời là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình: Người
thấm nhuần thực tại thần linh sống động đến nỗi có một sự duy nhất và
đồng nhất về hữu thể, về cuộc hiện sinh, giữa Người và Chúa Cha. Người chính là
sự mạc khải chính xác về Chúa Cha nơi bản thân Người, nơi Lời Người, nơi hành
động của Người. Người chính là Chúa Cha đến với chúng ta cách hữu hình cụ thể
để chúng ta được tiếp xúc cụ thể với tình yêu của Thiên Chúa.
2. Đức Giêsu là Thiên Chúa mà lại nói về Thiên Chúa như
là một Đấng khác với Người. Đây chính là cốt lõi của mầu nhiệm Nhập Thể,
mầu nhiệm Thiên Chúa đi vào trong thời gian, trong không gian và trong các giới
hạn của loài người. Con Thiên Chúa, trong khi vẫn là Con Thiên Chúa, lại chấp
nhận khép mình vào trong các chiều kích của thực tại phàm nhân. Tiếp xúc với
bản thân hữu hình của Đức Giêsu thì dễ hơn là tiếp xúc với Thiên Chúa vô hình;
nhưng điều tuyệt vời là khi tiếp xúc với Con Thiên Chúa hữu hình, chúng ta lại
được gặp Thiên Chúa vô hình. Tin vào Chúa Con là có thể tin vào Chúa Cha. Tin
vào Chúa Cha lại đưa đến cho chúng ta sự bình an, sức mạnh, niềm vui.
3. Chúng ta đã được Chúa Cha ban cho Đức Giêsu. Do đó,
Đức Giêsu luôn quan tâm lo lắng chăm sóc cho chúng ta. Người muốn rằng Người ở
đâu, chúng ta cũng được ở đó. Người cầu nguyện và hành động để nhờ kết hợp với
Người, chúng ta được tham dự vào sự sống mà Chúa Cha trao ban. Đây là một thách
đố cho đức tin chúng ta, bởi vì chúng ta đang được tiếp cận với mầu nhiệm thâm
sâu của chính Thiên Chúa: lời lẽ con người không đủ khả năng diễn tả; chỉ nhờ
chiêm ngưỡng, chúng ta mới ngày càng hiểu rõ nội dung những lời Đức Giêsu nói
ra như thể nghịch lý.
4. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Đức Giêsu là con đường bởi vì
Người là sự thật hoặc sự mạc khải về Chúa Cha, để khi loài người biết Người,
thì cũng biết Chúa Cha và khi loài người thấy Người là thấy Chúa Cha. Đức Giêsu
là con đường bởi vì Người là sự sống (do Người sống trong Chúa Cha và Chúa Cha
sống trong Người), Người là con kênh dẫn sự sống của Chúa Cha đến với loài
người.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm