từ bỎ mình
đỂ theo ĐỨc Giêsu
(Mátthêu 10,37-42 – CN XIII TN -
A)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đang ở trong
Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có
bố cục như sau:
1) Dẫn nhập
(9,36–10,5a):
a) Các yếu tố xác định (9,36-38),
b) Việc
trao ban quyền và các tên gọi (10,1-5a);
2) Phần chính
(10,5b-42):
a)
Nhiệm vụ của các tông đồ (cc. 5b-15),
b)
Những khó khăn và cách thức thắng vượt (10,16-42);
3) Kết (11,1).
Riêng
phân đoạn 10,16-42 có bố cục như sau:
1) Sự bách hại các tông đồ
phải chịu (10,16-39):
a) Hoàn cảnh tởng quát của các
sứ giả (10,16),
b) Loài người sẽ xử tệ với các ông (10,17-23),
c) Số phận chung của môn đệ và thầy (10,24-25),
d) Lý do khiến các ông không được nao núng (10,26-31),
e) Tương quan của
các ông với Đức Giêsu (10,32-39);
2) Việc tiếp đón các
tông đồ (10,40-42).
2.- Bố cục
Bản văn 10,37-42 có thể chia thành hai
phần:
1) Ưu tiên chọn lựa Đức Giêsu
(10,37-39);
2) Tiếp đón các tông đồ (10,40-42).
3.- Vài điểm chú giải
- Ai
yêu (37): Đức Giêsu “ghen” trong chiều hướng của lòng ghen của Thiên
Chúa, được Cựu Ước nói tới (Đnl 29,20; 32,16;…). Nhưng “yêu” ở đây không phải
là động từ agapân (x. 5,43; 19,19; 22,37tt) để chỉ tình yêu đối với Thiên
Chúa và đồng loại; đây là động từ philein, thường được Mt dùng
theo nghĩa tiêu cực: “gắn bó với”, “đem lòng thương mến”, “thích điều này điều
nọ” (x. 6,5; 23,6; 26,48). Tuy nhiên, không phải Đức Giêsu dạy sự bất hiếu, bất
kính (x. Lc 2,49; Mc 3,33-35). Ngài chỉ muốn nói rằng đứng trước ý muốn của
Thiên Chúa, công việc của Thiên Chúa, bản thân Người, mọi giá trị khác và
mọi người khác đều phải xuống hàng thứ yếu.
-
không xứng với Thầy (38): Đây là sự xứng đáng hiện sinh. Ai không đoạn tuyệt với
những liên hệ thân thương nhất (nếu cần) để đi theo Đức Giêsu, thì đã tự làm
cho mình nên bất xứng với Ngài.
-
mang lấy thập giá (38): Bước theo Đức Kitô, là theo Ngài trên một con đường
đầy đau khổ tàn bạo và công khai (như người tử tội vác thập giá đi giữa hai
hàng người thích thú man rợ và đối xử dã man với mình). Vậy phải tiên liệu và
chấp nhận sự chống đối dữ dội và hầu như công khai do mình là môn đệ của Đức
Kitô.
- một
trong những kẻ bé nhỏ (42): Đây là người không có trách nhiệm
gì đặc biệt trong cộng đoàn Kitô hữu. Dù chỉ là “môn đệ” chứ không là gì khác,
người ấy cũng được đặt ngang hàng với tất cả mọi người. Những người ấy không
làm gì ngoài việc “tin” (x. 18,6), cũng đáng được trân trọng và yêu thương đặc
biệt.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ưu tiên chọn lựa Đức
Giêsu (37-39)
Phân đoạn
10,32-39 nhắm vào quan hệ với Đức Giêsu. Lời văn có vẻ nghịch lý, nhưng để nói
rằng coi trọng Đức Giêsu hơn, duy trì bằng mọi giá sự hiệp nhất với Ngài, là
con đường duy nhất để có sự hiệp nhất với Thiên Chúa và được sống. Ở đây vẫn là
ý tưởng cần phải chọn giữa Thiên Chúa và loài người, như đã thấy ở 10,26-31.
Những nhân vật liên hệ với nhau trong tương quan được mô tả ở 10,32-33, là: Cha
trên trời của Đức Giêsu (ở 10,20.29: Cha anh em), Đức Giêsu, cá nhân, loài
người. Cá nhân phải tự quyết định, phải chọn lấy sự hiệp thông công khai và
được tuyên xưng thẳng thắn với Đức Giêsu để qua Đức Giêsu, đạt được sự hiệp
thông với Thiên Chúa. Ngược lại, ai chối Đức Giêsu thì cũng tách khỏi Thiên
Chúa. Một hình thái cho thấy là người ta nhìn nhận Đức Giêsu công khai, đó là
loan báo không sợ hãi sứ điệp của Ngài (x. 10,27). Ở 10,34-39, tác giả không
còn nói rõ ràng đến Thiên Chúa Cha nữa, cũng chẳng nói đến loài người cách tổng
quát nữa. Tương quan được giới hạn lại với Đức Giêsu, với các thành viên của
một gia đình và với từng cá nhân. Một lần nữa, lại cần phải chọn lựa rõ ràng.
Đức Giêsu, sự hiệp nhất với Ngài, phải được coi trọng hơn mọi người, cho dù
điều này tạo ra những mâu thuẫn với những thành phần của gia đình mình. Và cuối cùng, phải chọn đi
theo Đức Giêsu trên con đường đưa tới thập giá; sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải
là sự hiệp nhất vớssssi Ngài trong tất cả thực tại của Ngài và phải được coi
trọng hơn cả chính mạng sống mình. Chỉ người nào chịu mất mạng vì Đức Giêsu,
thì mới tìm được mạng sống (10,39). Điều được nói ở 10,32-39 là lý do quyết
định khiến người ta loan báo không sợ hãi, nhưng còn đi xa hơn, nghĩa là nó xác
định rằng trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải được coi trọng
hơn mọi sự và mọi người.
* Tiếp đón các tông
đồ (40-42)
Sang phần
này, Đức Giêsu nói về tư cách của các môn đệ. Từ ngữ “anh em” ở c. 40 nhắm tới
các môn đệ cũng là tông đồ, lại được diễn giải bằng ba danh từ “ngôn sứ”,
“người công chính” và “kẻ bé nhỏ”: các ông giúp hiểu đúng đắn ý Thiên Chúa, các
ông cũng chia sẻ đời sống của mọi tín hữu, nhưng các ông chấp nhận đời sống
truyền giáo trong nếp sống nghèo khó và khiêm tốn (x. cc. 9-10).
Tiếp đón các tông đồ được coi như là tiếp đón Đức Giêsu,
và tiếp đón Đức Giêsu thì cũng như tiếp đón chính Thiên Chúa (= Đấng đã sai Đức
Giêsu). Mười hai tông đồ là những sứ giả của Đức Giêsu (x. apostellein ở 10,5.16), còn Đức Giêsu thì được Thiên Chúa cử đi (x.
apostellein ở 10,40; 15,24; 21,37).
Nguồn mạch tối hậu của mọi sứ vụ là chính Thiên Chúa, Đấng đồng thời là chủ mùa
gặt và Đấng sai phái các thợ gặt (9,36-38). Sự liên kết này giữa các cuộc sai
phái là nền tảng cho thấy vì sao có sự tương đương trong việc đón tiếp; và sự
tương đương trong đón tiếp lại cho thấy giá trị và tầm quan trọng của hoạt động
của các tông đồ của Đức Giêsu. Cả phần thưởng cho việc tiếp đón cũng dựa trên
sự liên kết ấy giữa các cuộc sai phái. Ở 10,14t, sự trừng phạt cánh chung dành
cho việc không tiếp đón lại chứng tỏ tầm quan trọng của công việc của các tông
đồ. Ở 10,41t, ngược lại, phần thưởng cánh chung (x. 5,12: trên trời; 6,1: nơi
Cha anh em, Đấng ngự trên trời) dành cho việc tiếp đón cũng có chức năng như
thế.
+ Kết
luận
Đã gắn bó với Đức Giêsu, thế nào người
môn đệ cũng phải đi vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm công khai; và không
có một “cuộc dấn thân” nào theo lệnh Đức Kitô, mà lại không đồng thời là hành vi thâm sâu và riêng tư
nhất (mất mạng sống). Người môn đệ sẽ phải chia sẻ thập giá với Đức Giêsu.
Nhưng bất cứ người môn đệ nào, dù là người bé nhỏ khiêm tốn nhất, cũng có quyền
coi tất cả những gì được nói ở đây là nói cho chính họ: họ được sai đi, và họ
được liên kết với số phận của Thầy chí thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Thật ra bước theo Đức Giêsu không có nghĩa là không yêu thương cha mẹ hoặc con
cái mình. Phải nói là trái lại nữa: ai thật sự bước theo Đức Kitô thì đạt được sự
tự do mới, một tự do đích thực, khiến người ấy có thể thật sự yêu thương
cha mẹ và con cái. Tuy nhiên, tình yêu này là một tình yêu được “nâng cấp” bởi
tình yêu đối với Đức Kitô: ta yêu thương người khác vì Thiên Chúa, trong Thiên
Chúa, bằng chính tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng để được như thế, người môn đệ
phải dứt khoát chọn Đức Kitô.
2.
Chọn lựa làm ki-tô hữu có thể đẩy người ta vào tình trạng ngặt nghèo, có thể
gây khó khăn cho những dây liên hệ thân thương nhất. Tuy nhiên, khi đứng trước
cái ngưỡng cửa là thử thách lớn lao nhất (tử đạo), người ta không được để cho
mình chao đảo bởi lòng thương đối với con cái hoặc cha mẹ mình. Hoàn cảnh có
thể là tế nhị và khó khăn, nhưng phải can đảm quyết định; nếu không, người ta
có thể phản bội Đức Kitô và phải gánh chịu những hậu quả bi đát (c. 33).
3.
Tất cả những ai cộng tác cách nào đó vào hoạt động truyền giáo và ngôn sứ, thậm
chí chỉ cho một chén nước lã mà thôi, thì cũng được chia sẻ những mệt
nhọc và công trạng của các vị thừa sai. Họi Thánh là một thân thể, nên
bất cứ thành viên nào cũng phải chịu trách nhiệm về sự tăng trưởng của toàn
thân thể, cho dù chỉ đảm nhận một phận vụ khiêm tốn. Cho dù chỉ giúp đỡ
các sứ giả, các ngôn sứ, các tín hữu tầm thường, về mặt vật chất, người ta cũng
đang tham dự vào công cuộc loan báo Tin Mừng.
Lm.
Fx Vũ Phan Long, OFM