Chúa nhật XXV thường niên năm - A
(Mt 20, 1 – 16a)
Chúa nhật này, tác giả Tin Mừng muốn tiếp tục quảng diễn
cho chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời. Sứ điệp sâu xa chính là ý
muốn cứu độ phổ quát cả và nhân loại của Chúa Cha, nên mọi người đều được mời đến
làm vườn nho của Chúa.
Điểm nổi bật trong dụ ngôn này là cuộc nổi loại của những
người đến làm việc trước. Những người (thợ làm vườn nho) sống và làm việc vì Nước
Trời, nhưng coi đó như một trách nhiệm nặng nề ( "chúng tôi chịu đựng nắng
nôi khó nhọc suốt cả ngày " Mt 20,12) chứ không phải là hồng ân đến từ
Thiên Chúa, tự coi mình như những tên đầy tớ xấu.
Bước vào trong sự thân
tình của Chúa
Tất cả chúng ta đều được
Chúa mời gọi đi làm vườn nho của Chúa. Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc.
Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7 ; Gr
2, 21 ; Ez 15, 4). Câu "hãy đi
làm vườn nho ta" (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ
ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói : "Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta".
Đi làm vườn nho của
Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng
bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. Chúa Giêsu tự khẳng định
mình: "Thầy là cây nho thật"
(Ga 15, 1-5). Nên câu "Hãy đi làm vườn
nho ta" còn có nghĩa là " hãy
vào hưởng niềm vui của chủ ngươi" (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu
được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng
nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm
thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh
lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc
Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công : "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng
đáng" (Mt 20, 4). Có người hỏi : Xứng đáng ở đây là xứng với cái
gì ? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng
đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không
khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả
công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc
phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ?
Khó khăn phát xuất từ một
sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa "sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ
làm" (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống
chúng ta : "Tư tưởng Ta không phải
là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta"
(Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn
của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên
không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương
được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ nhê, là thuế mà mỗi Người
Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng
"xtate" tiền cổ Hy lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền
thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến
mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì
chẳng hạn.
Để
nhận ra "điểm chính" trong dụ
ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu về một tình huống cụ thể.
Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế
vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu : "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho
mình" (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của
dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân
ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do
Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân
ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết
định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định
theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng
một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức
xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người : "Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu
và thứ chín".
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai
chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ
trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ
quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng
về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc
nhưng "không ai thuê"; họ
nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn,
có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người
trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng
những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào "buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ " đi chăng nữa,
thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng
" vào giờ thứ mười một" anh
thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào
Nước Trời : "Thật hôm nay, anh
sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta" (Lc 23, 43). Chúa không kết
án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình ; họ đi làm, nhưng "không ai thuê" (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa
là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt
quá công trạng của chúng ta : "từ
người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng".
Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong
cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng
thương xót như ông muốn : " Nào tôi
chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? "
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết
rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ
cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả
cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công
trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà
còn "tốt lành," quảng đại và nhân đạo.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ