CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN A
Is 45,1.4-6; 1 Tx 1,1-5b; Mt 22,15-21
TRẢ VỀ CHO CHÚA NHỮNG GÌ THUỘC VỀ CHÚA
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Mt 22,15-21
(15) Bấy giờ
những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ
lời mắc bẫy. (16) Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe
Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người
chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai,
vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. (17) Vậy xin Thầy cho biết ý
kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da
hay không ?” (18) Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các
người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình ! (19) Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi
coi !” Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. (20) Và Người hỏi họ: “Hình và danh
hiệu này là của ai đây ?” (21) Họ đáp: “Của Xê-da”. Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế
thì của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
2. Ý CHÍNH:
Một số người Pha-ri-sêu liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm
cách gài bẫy Đức Giê-su, để có cớ tố cáo chống lại Người. Nhưng cuối cùng Người
không bị mắc bẫy của họ, mà còn giúp họ ý thức bổn phận sống “tốt đạo đẹp đời”,
vừa tôn trọng thế quyền lại vừa tôn trọng thần quyền bằng nguyên tắc như sau:
“Của Xê-da trả về Xê-da, Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15: + Bấy
giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su
phải lỡ lời mắc bẫy: Những người Pha-ri-sêu được dân Do
Thái đánh giá là có lòng ái quốc, chống lại đế quốc Rô-ma bấy giờ đang cai trị
nước Do Thái. Các người Pha-ri-sêu rất tôn trọng Thiên Chúa, tuân giữ tỉ mỉ
từng điều khoản trong bộ luật Mô-sê, nhất là luật về ngày hưu lễ (Sa-bát) và
việc thanh tẩy, nhưng họ lại không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a).
Vì Đức Giê-su nhiều lần quở trách thói giả đạo đức và kiêu căng, nên họ luôn
chống đối Người. Ở đây họ bàn mưu tính kế để tố cáo Người về lời nói.
- C 16: + Những người phe Hê-rô-đê: Đây là một đảng phái chính trị, là tay chân ủng hộ vua
Hê-rô-đê và thân với chính quyền Rô-ma. Họ theo văn hóa Hy Lạp và không quan
tâm đến luật Mô-sê. Có thể nói phe này đối lập với nhóm Pha-ri-sêu cả về chính
trị lẫn tôn giáo. Người Pha-ri-sêu cùng với những người phe Hê-rô-đê: Hai nhóm
người đối nghịch nhau giờ đây lại liên kết với nhau để đối phó với Đức Giê-su
là kẻ thù chung của họ, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Họ rình rập và sai một số
người giả bộ làm người công chính, đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ
lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn” (Lc 20,20). +
Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật: Đây là một lời khen
giả dối với mục đích tránh bị Đức Giê-su nghi ngờ về ý đồ đen tối của họ. Họ
chào hỏi Người như là một ông Thầy (Rab-bi), khen Người là người trung thành
với lề luật Thiên Chúa và không bị người đời chi phối. Đây là hai đặc tính tiêu
biểu của người công chính được Thánh Kinh nhắc đến (x. Cv 10,34 ; Gc 2,1-9 ; Cl
3,25).
- C 17: + Xin Thầy cho ý kiến: Họ xin Đức Giê-su cho ý kiến để giải quyết một vấn đề
phức tạp mà nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Hê-rô-đê bất đồng ý kiến với nhau. +
Xê-da: Tước hiệu ám chỉ hoàng đế đang trị vì đế quốc Rô-ma. Trong Tân
Ước, tước hiệu Xê-da ám chỉ 3 vị hoàng đế Rô-ma: Một là AU-GÚT-TÔ: cai trị từ
năm 29 trước Công nguyên đến năm 14 sau Công Nguyên, vào thời điểm Đức Giê-su
giáng sinh tại Bê-lem (x. Lc 2,1). Hai là TI-BÊ-RI-Ô: Cai trị từ năm 14 đến năm
37 sau CN, trong thời gian Đức Giê-su giảng đạo công khai. Tin Mừng nhắc đến
tước hiệu này 3 lần: Khi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Lc 3,1), khi Người bị gài
bẫy về việc nộp thuế (x. Mt 22,17) và khi Người bị dân Do Thái đòi kết án tử
hình thập giá (x. Ga 19,12). Ba là NÊ-RÔNG: cai trị từ năm 54 đến năm 68 sau
CN. Sách Công Vụ dùng tước hiệu này để chỉ hoàng đế Nê-rông, khi ông Phao-lô
gặp khó khăn với người Do Thái tại Thê-xa-lô-ni-ca (x. Cv 17,7), và khi ông tự
biện hộ rồi kháng án lên hoàng đế Xê-da (x. Cv 25,10 ; 28,19). + Nộp
thuế: Người Do Thái hằng năm đều phải nộp hai thứ thuế: Một là thuế tôn giáo hay thuế Đền Thờ (x. Mt
17,24). Hai là thuế nhà nước: Ngoài nhiều loại thuế khác, mỗi năm người Do Thái
trong hạn tuổi từ 14 đến 65, đều phải nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma. Người
Do Thái coi việc nộp thuế này là một sự ô nhục, biểu lộ thái độ thần phục hoàng
đế Rô-ma. Vì thế Nhóm Quá khích có tinh thần ái quốc đã cấm thành viên của mình
đóng thuế cho ngoại bang. + Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không
?: Câu này có nghĩa là người Do Thái theo lương tâm có được nộp thuế
cho hoàng đế Xê-da vừa là dân ngoại, vừa là vua của đế quốc đang thống trị dân
Do Thái hay không ? Như vậy vấn đề nộp thuế ở đây được đặt trên bình diện chính
trị. Đây chính là một cái bẫy mà theo thâm ý của họ thì Đức Giê-su trả lời đằng
nào cũng không ổn: Nếu bảo phải nộp thuế, thì nhóm Pha-ri-sêu sẽ tố cáo Người
là kẻ phản quốc và chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) mà dân Do
Thái đang mong đến, để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của dân ngoại.
Ngược lại, nếu Người bảo không phải nộp thuế, thì phái Hê-rô-đê sẽ dựa vào đó
tố cáo với tổng trấn Rô-ma rằng Đức Giê-su là kẻ phản động, đang âm mưu chống
lại chính quyền Rô-ma, cụ thể là xúi giục dân không nộp thuế, để tổng trấn ra
lệnh bắt bớ giết hại Người.
- C 18: + Đức Giê-su biết họ có ác ý: Những
kẻ chất vấn Đức Giê-su đã tỏ ra giả dối trong hai chuyện: Một là họ làm ra vẻ
băn khoăn về một vấn đề lương tâm, đang khi thâm ý của họ là muốn gài bẫy làm
hại Đức Giê-su. Hai là trong cuộc sống đời thường, họ vẫn phải sử dụng đồng
tiền của Xê-da để giao dịch mua bán, tức là họ đã mặc nhiên chấp nhận quyền cai
trị của hoàng đế Rô-ma rồi. Thế nhưng họ vẫn làm ra vẻ như không chấp nhận
quyền ấy. + Tại sao các người lại thử tôi ?: Qua câu này, Đức Giê-su cho
thấy người đã biết rõ ý đồ đen tối của bọn người này là muốn giăng bẫy để làm
hại Người. + Hỡi những kẻ giả hình: Giả hình là không trung thực, là giả
bộ, thái độ và lời nói bên ngoài trái ý với ý nghĩ trong thâm tâm. Họ đặt câu
hỏi không phải vì muốn biết điều đúng để theo, nhưng là muốn đưa Người vào thế
“tiến thoái lưỡng nan”, để hoặc tố cáo làm mất uy tín của Người trước dân
chúng, hoặc tố cáo Người với nhà cầm quyền Rô-ma để mượn tay họ giết hại Người.
- C 19: + Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi:
Đức Giê-su đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế là tiền của Rô-ma đang lưu hành
ngoài xã hội, trên đó có khắc hình và danh hiệu của Hoàng đế Xê-da. Mười điều
răn trong Luật Mô-sê có khoản như sau: “Người không được tạc tượng, vẽ hình bất
cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới
mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Trên danh hiệu hoàng đế Rô-ma có chữ thần linh,
vì hoàng đế tự coi mình là thần, nên người Do Thái đạo đức không muốn sử dụng
đồng tiền này. Dân Do Thái trước khi nộp thuế Đền Thờ hay ủng hộ việc trùng tu
Đền Thờ, phải đổi từ tiền Rô-ma dùng ngoài xã hội sang loại tiền riêng dùng
trong Đền Thờ tại những bàn đổi tiền (x. Mt 21, 12). + Họ đưa cho Người một đồng bạc:
Người Do Thái có lòng yêu nước chân chính sẽ không mang theo đồng tiền của đế
quốc Rô-ma. Ở đây khi lấy từ túi áo một đồng tiền để đưa cho Đức Giê-su, tức là
những người này đã mặc nhiên thừa nhận quyền cai trị của hoàng đế Xêda. – C
20-21: Hình và danh hiệu này là của ai
đây ?: Đức Giê-su đã quá biết hình và danh hiệu khắc trên đồng tiền là
của Xê-da. Nhưng Người muốn chính miệng họ phải nói ra điều này, trước khi
Người trả lời thắc mắc của họ. + Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da:
Một khi họ nhận quyền của hoàng đế trên dân tộc mình, thì việc nộp thuế cho
hoàng đế Rô-ma cũng là lẽ đương nhiên (x. Rm 13,5-7). Vì mọi quyền hành đều
xuất phát từ Thiên Chúa, như lời Đức Giê-su nói với tổng trấn Phi-la-tô: “Ngài
không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19,11), hoặc
như thánh Phao-lô viết: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có
quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do
Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1-4). Thánh Phê-rô cũng dạy tương tự (x. 1 Pr
2,13-14). Nói cách khác, khi người ta tùng phục quyền bính chính đáng của thế
quyền, thì cũng là làm theo thánh ý của Thiên Chúa. + Của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa: Nhưng khi thế quyền chống lại Thiên Chúa, thì các tín hữu phải
chọn đứng về Thiên Chúa, vì Người mới là nguồn gốc mọi quyền bính của loài
người, như Tông đồ Phê-rô đã trả lời trước Thượng Hội Đồng Do Thái, khi bị họ
ngăn cấm rao giảng danh Đức Giê-su: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
người phàm” (Cv 5,29). Tóm lại, qua câu trên, Đức Giê-su muốn dạy rằng: Nộp
thuế thì cứ nộp, vì dù muốn dù không thì ta cũng đang sống dưới quyền cai trị
của một đế quốc, thể hiện qua việc phải sử dụng đồng tiền của đế quốc. Nhưng
chỉ được tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, và ngoài Người ra không còn thần linh
nào khác. Như vậy theo lời Đức Giê-su, người ta phải chu toàn cả hai bổn phận:
Vừa tôn trọng quyền lợi của hoàng đế, lại vừa tôn trọng quyền lợi của Thiên
Chúa.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao người Pha-ri-sêu chống đối Đức Giê-su ? 2) Hai nhóm Pha-ri-sêu va
Hê-rô-đê đã làm gì để liên kết chống đối Đức Giê-su ? 3) Trong Tân Ước, Xê-da
là tước hiệu ám chỉ ba vị hòang đế nào của đế quốc Rô-ma ? 4) Người Do thái
hằng năm phải nộp những lọai thuế nào ? Ho thường bất đồng ý kiến với nhau về
việc phải nộp lọai thuế nào ? Tại sao ? 5) Những người Pha-ri-sêu va phái
Hê-rô-đê đã gài bẫy Đức Giê-su như thế nào về việc nộp thuê ? 6) Tại sao Đức
Giê-su lại gọi bọn người này là những kẻ giả hình ? 7) Hãy cho biết hai lọai
đồng tiền thời Đức Giê-su khác nhau thế nào ? Đức Giê-su đã làm gì để hóa giải
cái bẫy của những kẻ ác ý kia ? 8) Qua câu “của Xê-da trả cho Xê-da, Của Thiên
Chúa trả cho Thiên Chúa”, Đức Giê-su đã phân định thế nào về bổn phận của các
tín hữu đối với thế quyền và với Thiên Chúa ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) SỰ LỰA
CHỌN CỦA THÁNH TỬ ĐẠO
Vua HĂNG-RI THỨ TÁM (Henry VIII) Nước Anh, muốn Tòa thánh
hủy bỏ cuộc hôn nhân chính thức trước đó để tái hôn với cô En-nơ Bô-lơn (Anna
Bolen). Nhưng vì không hội đủ lý do tiêu hôn, nên Tòa Thánh đã từ chối giải
quyết yêu cầu của vua. Nghe vậy, HĂNG-RI tức giận và tuyên bố thành lập một
giáo hội Anh quốc ly khai khỏi Công Giáo. Sau đó, ông tự huỷ bỏ cuộc hôn nhân
trước để tái kết hôn theo ý ông muốn. Ông tự phong là giáo chủ của Anh giáo, và
ra lệnh cho các chức sắc tôn giáo như hồng Y, Giám Mục và các Quan chức trong
triều, các vị tướng lãnh, quý tộc và các thành viên trong nghị viện Anh phải ký
tên vào một văn bản công nhận quyền tái hôn của ông, và gia nhập Anh giáo ly
khai. Nhiều người phản đối, nhưng vì sợ bị chém đầu, nên đành ký tên vào bản
văn ấy. Bấy giờ
Còn bạn, khi gặp hoàn cảnh phải chọn một trong hai: Thiên
Chúa hay tiền bạc, địa vị con Thiên Chúa hay chức quyền trần gian. Trong trường
hợp đó, bạn sẽ chọn theo điều nào: Chọn theo Chúa và chấp nhận bị coi là kẻ khờ
dại và bị loại trừ, hay chọn theo những kẻ gian ác tham nhũng để được an thân
và được thăng quan tiến chức ?
2) ĐỒNG BẠC
RÔ-MA THỜI ĐỨC GIÊ-SU:
Khi đến viện bảo tàng Men-sét-tơ (Manchester) bên nước
Anh, và đi thăm khu vực trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rô-ma,
bạn có thể tìm thấy loại đồng tiền De-na-ri-ut (Denarius) bằng bạc, trên đó có
đúc niên biểu và hình của hoàng đế Rô-ma. Quan tiền này được lưu hành trong
nước Do Thái vào thời Đức Giê-su. Trong lúc cầm quan tiền trên tay và lật qua
lật lại, bạn có thể liên tưởng đến dụ ngôn người Sa-ma-ri ngoại đạo, đã đưa cho
chủ quán hai quan tiền như thế, để nhờ chăm sóc một người Do Thái bị bọn cướp
trấn lột và đánh trọng thương (x. Lc 10,35). Bạn cũng có thể liên tưởng đến dụ
ngôn các thợ làm vườn nho trong Tin Mừng Mát-thêu. Ông chủ vườn đã trả lương
cho mỗi người thợ làm vườn một quan tiền như đồng bạc đó (x. Mt 20,9-10). Nhất
là, bạn có thể liên tưởng đến quan tiền mà Đức Giê-su đã dùng để trả lời cho
hai nhóm Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê liên minh với nhau gài bẫy Người. Trên quan
tiền này, bạn chăm chú nhìn vào khuôn mặt của một vị Xê-da là TI-BE-RI-UT
(Cesar Tiberius) đang cai trị đế quốc Rô-ma vào thời Đức Giê-su rao giảng Tin
Mừng (x. Lc 3,1). Mặt sau của đồng bạc là hình bà LI-VI-A, mẹ của vua
TI-BE-RI-UT. Bà đang ngồi, cầm một cành cây ô-li-va trên tay, tượng trưng cho
hòa bình.
Cầm đồng tiền ấy trên tay, người ta có thể liên tưởng đến
câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất; đến dụ ngôn ông chủ vườn nho đã
trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất là, người ta có thể liên tưởng đến
đồng tiền Chúa Giêsu đã dùng để trả lời cho cả 2 nhóm Pharisêu và Herodes trong
Tin Mừng hôm nay.
3) MỌI SỰ ĐỀU LÀ CỦA CHÚA:
"Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là người
vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được
bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn
chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông
tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương Đông...
Một ngày kia, Satan đến gặp Thiên Chúa. Thiên Chúa khen
ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều
ác.
Satan cho rằng ông Gióp tốt với Chúa như vậy chẳng qua là
vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa thử giơ tay rút lại những tài
sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ Chúa nữa không? Chắc chắn là
Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!
Thiên Chúa chấp thuận để cho Satan thử thách lòng trung
tín của ông Gióp đối với Người.
Vậy là một ngày kia, đang khi các con trai con gái của
Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có một người đưa tin đến cho ông Gióp rằng:
- Trong lúc bò của ông đang cày ruộng và lừa cái ăn cỏ
bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại còn dùng gươm giết chết các
đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho ông hay. Người ấy còn đang
nói thì một người khác chạy về thưa:
- Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đốt cháy chiên
dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin
ông hay. Người nầy còn đang nói thì người khác chạy về thưa:
- Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà;
còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về
báo tin ông hay. Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:
- Con trai con gái ông đang ăn uống tại nhà người anh cả
thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập
xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin
ông hay.
Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp
mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi
cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin
chúc tụng danh Đức Chúa!" (Gióp 1, 6-22).
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta biết rằng: mọi sự ta có
đều là của Chúa ban cho ta hưởng dùng, nếu mai đây Chúa có đòi lại thì chúng ta
cũng hãy bằng lòng và phó thác để Chúa định liệu.
4) KHÔN NGOAN
PHÒNG TRÁNH CẠM BẪY CỦA THẾ GIAN
Đức TGM Ngô Quang Kiệt, ngày 20. 09. 2008, đã phát biểu
tại UBND TP. Hà nội, trước một cử tọa khá đông người như sau: " Chúng tôi
đi ra nước ngoài rất nhiều. Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt
Nam đi đâu cũng bị soi xét. Chúng tôi buồn lắm chứ. Chúng tôi mong muốn đất
nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất
cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người
Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự
đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh..." Vậy mà hôm
sau báo đài Việt Nam đã loan tin ầm lên, khi họ chỉ trích ra một phần nhỏ trong
câu nói dài của ngài: "Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt
Nam..." Thói đời là thế, khi người ta không ưa ai, muốn hạ bệ ai, nhất là
khi người ta chẳng tôn trọng sự thật, chẳng sợ lương tâm gì cả... Về phần các
tín hữu, cần phải cảnh giác và khôn ngoan đề phòng trước những thông tin của
các thế lực thù địch chống phá Hội Thánh. Hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha luôn
khôn ngoan để lèo lái con thuyền Hội Thánh vượt qua sóng gió như muốn nhấn chìm
Hội Thánh. Hãy cầu xin cho mỗi tín hữu
chúng ta tránh những tội lỗi và gương xấu làm cớ vấp phạm cho con người thời
đại hôm nay.
3. SUY NIỆM:
Đến chất vấn Đức Giê-su là những người thuộc hai nhóm đối
lập nhau về chính trị là nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Hê-rô-đê. Để đối phó với Đức
Giê-su là kẻ thù chung, hai nhóm này tạm thời liên minh đặt ra một cái bẫy để
từ đó tố cáo giết hại Người:
1) CÁI BẪY ĐƯỢC
GIƯƠNG RA:
“Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”, một câu
hỏi thật sắc bén do họ đặt ra, để đưa Đức Giê-su vào thế bí, mà theo họ thì trả
lời đàng nào cũng không ổn: Nếu Đức Giê-su bảo phải nộp thuế cho đế quốc, thì
nhóm Pha-ri-sêu vốn có lòng ái quốc sẽ đi rao rằng Người là kẻ bán nước, là tay
sai của ngoại bang để đàn áp bóc lột đồng bào, hầu dân Do Thái không tin Người
là Đấng Mê-si-a, mà họ đang tha thiết mong chờ. Nhưng nếu Đức Giê-su bảo rằng
không được nộp thuế cho Xê-da, thì phái Hê-rô-đê vốn thân chính quyền, sẽ thừa
cơ chụp mũ cho Người là một kẻ phản động, âm mưu xách động quần chúng chống
việc nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma, để Người sẽ bị chính quyền bắt bớ và kết án.
2) CÂU TRẢ
LỜI CỦA ĐỨC GIÊ-SU: Trước hết Đức Giê-su đã vạch trần
âm mưu đen tối của họ khi nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả
hình !” Rồi sau đó Người đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế. Đồng tiền này bằng
bạc, trên có khắc hình và tên hiệu của Xê-da là hoàng đế Rô-ma. Khi được hỏi
hình và tên hiệu của ai, họ thưa: “Của Xê-da”. Dĩ nhiên, Đức Giê-su đã biết rõ
hình đó là của ai, nhưng Người muốn chính miệng họ nói ra điều này, để cho họ
thấy: Một khi họ đã chấp nhận sử dụng đồng tiền của Rô-ma, tức là họ đã mặc
nhiên công nhận quyền cai trị của Xê-da và coi ông là hoàng đế của mình. Từ đó,
Đức Giê-su tuyên bố hai điều như sau:
- “Của Xê-da trả về cho Xê-da”: nghĩa là phải trả cho
Xê-da đồng tiền mang hình và danh hiệu của ông. Khi đã chấp nhận quyền cai trị
của hoàng đế Rô-ma, thì đương nhiên cũng phải chu toàn bổn phận đóng thuế cho
Xê-da ! Đây là đáp án cho câu hỏi “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không
?”.
- “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21): Tuy bọn
người này không hỏi về bổn phận đối với Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su vẫn nói
đến: Phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Người. Đây là một bổn
phận quan trọng mà những ai muốn là con hiếu thảo của Thiên Chúa không thể bỏ
qua.
3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Các tín hữu chúng ta vừa là công dân
của nước trần gian, lại vừa là công dân của Nước Trời. Là công dân nước trần
gian, chúng ta được hưởng những quyền lợi của công dân theo Hiến Pháp và luật
pháp quy định, như các quyền tự do cư trú, tự do tín ngưỡng, được bảo vệ tài
sản tính mạng, quyền ứng cử và bầu cử… Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng có
trách nhiệm phải thi hành nghĩa vụ công dân như đóng thuế, bảo vệ an ninh tổ
quốc… Những kẻ vi phạm các nghĩa vụ công dân vừa có tội với đất nước, lại vừa
có lỗi với Thiên Chúa như thánh Phao-lô đã dạy: “Mỗi người phải phục tùng chính
quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính
hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1 ; Ga 19,11a). Trừ phi thế quyền
buộc chối bỏ đức tin, thì bấy giờ phải theo nguyên tắc được thánh Phê-rô nêu ra
trước Thượng Hội Đồng Do Thái: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người
phàm” (Cv 5,29).
Là công dân của Nước Trời, chúng ta cũng
được hưởng những quyền lợi thiêng liêng tinh thần và có trách nhiệm chu toàn
nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Chu toàn nghĩa vụ với Thiên Chúa, là tôn trọng các
công trình do Người sáng tạo, nhất là tôn trọng con người là tạo vật được Thiên
Chúa tạo nên giống hình ảnh Người (x. St 1,26); Bên cạnh đó, chúng ta cũng có
nghĩa vụ truyền giáo, là giúp cho người lương nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo
Hóa, và ăn ở như con cái hiếu thảo đối với Đấng đã tác thành nên mình. Ngoài ra chúng ta còn phải tôn trọng các tài nguyên thiên
nhiên và muôn sinh vật do Thiên Chúa dựng nên. Nhất là phải sử dụng những hồng
ân Chúa ban như sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, và tài năng để làm vinh danh Chúa
và phục vụ hạnh phúc cho tha nhân. Đó là trách nhiệm mà các tín hữu phải thực
hiện nếu không muốn bị loại ra khỏi Nước Trời trong cuộc phán xét vào ngày tận
thế sau này (x. Mt 25,41-45).
4. THẢO LUẬN:
1) Quyền của
nhà nước với quyền của Hội Thánh khác và giống nhau thế nào ?
2) Khi thế
quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng thì bạn cần có thái độ ra sao ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA ĐẦY LÒNG NHÂN ÁI. Xin cho chúng
con quyết tâm noi gương Đức Giê-su là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha”. Xin
cho chúng con có lòng bao dung nhân hậu để đón nhận mọi người là anh em. Xin
cho chúng con biết chia sẻ hạnh phúc được làm con Cha cho những người chưa nhận
biết và tôn thờ Cha. Xin cho chúng con luôn khiêm hạ phục vụ và tôn trọng tha
nhân như Cha đã nêu gương cho chúng con. Xin cho chúng con dám yêu đến cùng và
cho đi tất cả để được Cha yêu thương tha thứ lỗi lầm, và ban Nước Trời đời đời
cho chúng con.
2) LẠY CHÚA GIÊ-SU: Trong Tin Mừng hôm nay, khi nói: “Của
Xê-da trả về Xê-da”, Chúa đã dạy chúng con phải biết yêu mến và xây dựng tổ
quốc trần gian bằng việc chu toàn các nghĩa vụ công dân. Nhưng Chúa cũng nhắc
chúng con phải ý thức chu tòan bổn phận đối với Cha trên trời khi nói: “Của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Xin cho chúng con ý thức rằng: Dù đang sống
giữa thế gian, nhưng chúng con không thuộc về trần gian như lời Thánh Phao-lô:
“Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su
Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Do đó, ngay từ bây giờ, Chúa muốn chúng
con phải biết chu toàn bổn phận mến Chúa yêu người theo gương Chúa làm và lời
Chúa dạy.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH
- HHTM