lỜi loan
báo cỦa Gioan tẨy giẢ
(Mátthêu 3,1-12 – CN II MV - A)
1.- Ngữ cảnh
Phần
Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này
trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là
ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch.
3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là
con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu
là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời
đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng
dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong
phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là
động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu
sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên
thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận
đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua
Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho
Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của
Satan.
Bản
văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn đầu thuọc nửa hai của Phần Mở.
Phần
hai của phần Mở dường như làm thành một
bức tranh bộ đôi: ba đoạn liên hệ đến Gioan, và ba đoạn liên hệ đến Đức Giêsu.
Về Gioan: giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của ông (3,1-6); lời rao
giảng sự sám hối (3,7-10); lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12). Về Đức Giêsu:
phép rửa (3,13-17); các cám dỗ (4,1-11); các lời mào đầu về sứ vụ (kết thúc sứ
vụ của Gioan, Đức Giêsu trở về Galilê, Người cư ngụ ở Caphácnaum: 4,12-16).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành ba đơn vị:
1)
Những chi tiết tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (3,1-6);
2)
Lời rao giảng sự sám hối (3,7-10);
3)
Lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12).
3.- Vài điểm chú giải
- Hồi
ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến (1): Động từ paraginomai có nghĩa
là “đến, xuất hiện [trên sân khấu]”. Sau này, Đức Giêsu cũng được TM I giới thiệu như thế ở 3,13. Gioan
Tẩy Giả chính là người giới thiệu trước Đức Giêsu. Cả hai đều hoạt động tại
hoang địa, loan báo Nước Trời và sự hoán cải (3,2 // 4,17), và có làm một phép
rửa (c. 11a // c. 11c). Chỉ có điều Đức Giêsu “mạnh hơn” (c. 11), nên Gioan
không xứng đáng xách dép cho Người (c. 11), càng không xứng đáng làm phép rửa
cho Người (c. 14).
-
hoang địa (1): Đây là một ghi chú địa lý (thung lũng sông Giođan),
nhưng hơn thế nữa, còn là một ghi chú thần học. Trong truyền thống Kinh
Thánh, “hoang địa” là nơi lý tưởng để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 12,16-22; Gr 2,2-3; Ed 16,23; Đnl 8,2). Trong hoang địa, Đức Chúa (Yhwh) đã nói với Môsê (Xh 3), với Israel (Xh 19), với ngôn sứ Êlia (1 V
19).
- Ông
rao giảng (1): Động từ Hy Lạp kêryssô, “làm người tiền hô; rao
giảng; loan báo”. Đây là một động từ chuyên biệt của Tân Ước (61 lần) để
chỉ công việc công bố Tin Mừng. Các chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan
(3,1), Đức Giêsu (4,17) và các Tông Đồ (10,7). Đối tượng của việc công bố này
luôn luôn là Tin Mừng, Nước Thiên Chúa. Vì được vay mượn từ Cựu Ước (38 lần,
theo Bản LXX. Xem chẳng hạn Is
61,1tt), như thế động từ này nối kết Gioan Tẩy Giả vào truyền thống các ngôn
sứ, thiên sai và khải huyền.
- hối
cải (2): Động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp
đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải” (động từ Híp-ri shub).
Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay
đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo,
from] con đường tội lỗi: x. Cv
8,22; Dt 6,1) và một phương diện tiêu
cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong
TM Mt, danh từ metanoia
được dùng 2 lần (3,8.11) và động từ metanoeô được dùng 5 lần (3,2; 4,17;
11,20; 11,21; 12,41). Xin so sánh: metanoia: Mc một lần, Lc 5 lần, Ga 0 lần, Cv 6 lần, Phaolô 4 lần, Dt 3 lần, 2 Pr một lần; metanoeô: Mc
2 lần, Lc 9 lần, Ga 0 lần, Cv 5 lần, Phaolô một lần, Kh 12 lần. Tác giả chỉ áp dụng động từ metanoeô cho hoạt
động của Gioan Tẩy Giả (3,2) và Đức Giêsu (4,17) mà thôi, tức là chỉ liên kết
vị Tiền Hô và Đức Giêsu với nhau.
- Có
tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho
thẳng để Người đi (3): Câu này trích ở đầu “Sách Yên Ủi” (Is 40–55). Bản văn Híp-ri là: “Có tiếng người hô: Trong hoang địa,
hãy dọn sẵn một con đường cho Yhwh (Đức
Chúa); trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Bản
LXX: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa,
hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Các bản văn đều
không xác định ai là “người hô”; phải chăng một thiên thần? Các Tin Mừng đã trích Bản LXX, và gán cho
Gioan là “người hô”, và thay thế “Thiên Chúa” bằng đại từ “Người” để áp dụng
cho Đức Giêsu.
- mặc
áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức
ăn (4): Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là
“da” lạc đà; đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “dây
thắt lưng”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ
như cái “ruột tượng” của ta. “Châu chấu” là thức ăn của các dân trong sa mạc
(rang với muối hay phơi khô, ăn với dấm và mật ong rừng hoặc làm nhân bánh đa).
Kiểu mô tả Gioan khiến độc giả nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8); thật ra Mt mặc nhiên nói rằng Gioan là ngôn sứ
Êlia.
-
nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa (7):
dịch sát là “đến với (giới từ epi + đối-cách[1]: “trên; về phía; nhằm mục
đích”) phép rửa”. Câu văn có phần hàm hồ: có thể hiểu là họ đến nhận phép rửa
hoặc đến nơi có ban phép rửa. Một đàng, chúng ta được biết là họ không tin vào
Gioan và không chấp nhận phép rửa của ông (x. Mt 21,32), nên có thể cho rằng họ đến là để điều tra về ông (x. Ga 1,19-28). Nhưng đàng khác, vì có lời
trách của Gioan: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ…”, nên rất có
thể họ đến nhận phép rửa thật sự, dù lòng họ không tin.
Phái
Pharisêu (= những người “tách biệt”) phát sinh vào thời dòng họ Macabê (x. 1 Mcb 2,42). Sử gia Gioxép cho biết vào
lúc đó, họ có khoảng 6.000 thành viên (Ant. J., 18,42), trong đó có một
vài tư tế, còn đa số là giáo dân, được chiêu mộ trong số các kinh sư hoặc
tiến sĩ Luật. Là những người trung thành với Lề Luật và truyền thống truyền
miệng nhận từ các tiền nhân, họ đã trở thành những người linh hoạt đời sống
thiêng liêng của dân Chúa vào thời Đức Giêsu. Về mặt chính trị, họ bảo vệ quyền
tự quyết của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt trong các quan hệ với người Rôma.
Phái
Xađốc, là hậu duệ của thượng tế Xađốc (thời vua Salômôn: 1 V 2,35), chính là phái các tư tế, vì quy tụ các gia đình tư tế
giàu có. Họ chấp nhận các thói tục Hy Lạp và thích nghi với nền đô hộ Rô-ma. Về
phương diện tôn giáo, họ nhìn nhận Tôra,
tức Bộ Ngũ Thư,
loại bỏ truyền thống khẩu truyền, không tin vào sự sống lại, sự hiện hữu của
các thiên thần và sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Nòi
rắn độc (6): nghĩa là dòng dõi của Satan. St 3 đã coi con rắn là loài “rất tinh khôn” (phronimôtatos).
Nó là biểu tượng của sự “khôn khéo” (như rắn: 10,16), nhưng hơn nữa là biểu
tượng của sự gian tà xấu xa, do nó cắn và giết người ta bằng nọc độc (x. 12,34;
23,33). Sau này, con rắn được kết nối với Satan (x. Kh 12,9). Lời mắng của Gioan hoàn toàn ngược lại với niềm tự hào
của người Pharisêu về bản thân họ (“Chúng ta có tổ phụ [cha] là ông Ápraham”,
c. 9; x. Ga 8,3).
- cơn
thịnh nộ (7): “Cơn thịnh nộ [orgê]” ở dạng tuyệt đối[2] có nghĩa là cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa, được tỏ ra trong “Ngày của Đức Chúa” (x. Is 13,6-9; Xp 2,2; Ml 3,2.23-24). Các ngôn sứ khẳng định
“cơn giận” này sẽ được giáng xuống trên những kẻ tội lỗi (x. Am 3,2), nhưng Do Thái giáo thời Tân Ước
lại dạy rằng cơn giận này chỉ được giáng xuống trên Dân Ngoại, đặc biệt trên
những kẻ áp bức Israel: như thế là bắt đầu quan niệm về Đấng Mêsia chính trị.
-
những hòn đá này trở nên con cháu (9): Có lẽ ở đây có một kiểu
chơi chữ bằng tiếng A-ram: hai từ số phức abenyyâ’, “những hòn đá” và benayyâ’,
“những con cháu”, nghe gần giống nhau.
- gốc
cây (10): Trong Cựu Ước, “cây” là hình ảnh chỉ “dân chúng” (cây vân
hương: Is 6,13; cây hương bá: Ed 31,10-13; một cây [= đế quốc
Babylon]: Đn 4,7-12).
-
quăng vào lửa (10): Lửa thiêu đốt tượng trưng hình phạt Thiên Chúa giáng xuống
trên kẻ vô đạo (x. Am 1,4–2,5; Ed 22,18-22; Xp 1,18; Ml 3,2-19; Is 66,15-16).
-
quyền thế (11): dịch sát là “mạnh hơn” (ischyroteros, do danh từ ischys,
“sức mạnh; quyền lực; quyền thế”).
-
trong Thánh Thần và lửa (11): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được
dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23; Ml 3,2; Dcr 13,9), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và
để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy
có thể hiểu là Chúa Thánh Thần tẩy luyện như lửa (Khi đó, liên từ và có
vai trò giải thích). Nhưng ở c. 10 và đến c. 12, “lửa [không hề tắt]” lại là
“hình phạt, tức là “cơn thịnh nộ” của Thiên Chúa (x. c. 7). Vậy hợp lý là cho
rằng không lý gì mà tác giả thay đổi quá nhanh ý nghĩa của một từ như
thế từ c. 10 sang 11 rồi lại trở về nghĩa cũ ở c. 12 mà không báo trước gì cả,
nên “lửa” ở cc. 11-12 đều có nghĩa là “cơn thịnh nộ” con người gánh chịu khi
đối diện với sự thánh thiện của Thiên Chúa (Khi đó, liên từ và thêm vào
một sắc thái đặc biệt). Xem dụ ngôn “Cỏ lùng” (Mt 13,37-42).
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (1-6)
Các
ghi chú của Mt về Gioan không phải là một bản tiểu sử, nhưng là
một bản văn mang tính thần học và biện giáo. Các ghi chú này không nhắc
đến hoàn cảnh gia đình ông, cuộc chào đời, ơn gọi (như Lc 1–2), nhưng chỉ nêu ra những điểm liên hệ đến con người và hoạt
động của ông, nơi chốn, đề tài và nội dung lời ông rao giảng, các nghi thức kèm
theo.
Gioan
xuất hiện trong hoang địa, nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, nơi đã là sân khấu cho
một thời kỳ hồng ân, khi dân Israel đang tiến về Đất hứa, sống trong
tình trạng thân mật với Thiên Chúa (Đnl
2,7; Gr 2,2t; Hs 2,16). Ông xuất hiện như là nhà rao giảng về Đấng Mêsia (cc.
1-3) với dáng vẻ một ngôn sứ (c. 4); đặc biệt với y phục của ông, ông
giống với ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8)
là vị ngôn sứ mà dân chúng chờ đợi đến để khai mạc thời đại thiên sai (x. Ml 3,23; Mt 11,10). Quả thật, vào thời ấy, người ta tin rằng Êlia chưa chết
thật, nên ông sẽ tái xuất hiện để giới thiệu Đấng Mêsia cho thế giới. Nhưng Mt cho biết rằng ngôn sứ Êlia mà người Do
Thái vẫn trông mong chính là Gioan (x. Mt
11,14; 17,13). Mt giới thiệu Gioan như một ẩn sĩ (x. 11,8), ăn
mặc thô sơ, ăn uống kham khổ (3,4) và so sánh lời rao giảng của ông với một lời
than vãn trong đám tang (x. 11,17). Ông đã loan báo một sứ điệp được tóm tắt
là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (c. 2).
Ông
Gioan không nói cho biết “Nước Trời” nghĩa là gì; nhưng chúng ta biết những nỗi
niềm chờ mong của dân chúng thời Đức Giêsu. Israel đã được những vị vua bất
trung và bất xứng cai trị lâu quá rồi. Ho nghĩ, nay đã đến lúc Thiên Chúa nắm
lấy mọi sự và thay đổi. Có những nhà thuyết giảng đến bảo dân chúng đừng mất
tinh thần, họ bảo rằng thế giới cũ sắp chấm dứt rồi, và một thế giới mới sẽ
đến. Khi đó, những buồn phiền đau khổ không phải là dấu chỉ của sự chết, mà là
của sự sống, giống như những đau đớn của người mẹ sắp sinh con. Đấng Mêsia sẽ
chà đạp những kẻ áp bức và một vương quốc mới sẽ được thiết lập, trong đó Thiên
Chúa trực tiếp cai quản. Dân chúng sẽ làm bất cứ đòi hỏi nào để được vào trong
vương quốc ấy.
Dân
chúng “từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo
đến” với Gioan. Ghi chú này có phóng đại nhưng không phải là không có phần
đúng, bởi vì vào những thời điểm có những căng thẳng trầm trọng về tôn giáo và
chính trị, một ngôn sứ thường thành công. Gioan làm một nghi thức
diễn tả lòng thống hối kèm theo lời rao giảng (c. 6). Cách làm của Gioan hoàn
toàn phù hợp với bối cảnh thời ông, khi mà người ta vẫn cử hành các nghi thức
thanh tẩy được Lề Luật quy định (x. Lv
14–15). Nhưng cách làm của ông cũng có phần khác: phép rửa của ông được ban
dưới dấu chỉ metanoia, của sự hoán cải luân lý, tức là lấy lại điểm cốt
yếu trong giáo huấn của Cựu Ước, nhưng đặt vào viễn tượng của Nước Thiên Chúa
đang đến gần. Không có chỗ nào nói rằng nhờ nghi thức này, người ta được tha
các tội, nhưng nghi thức này đánh dấu việc thay đổi đã xảy đến hoặc sắp xảy đến
nơi người nhận phép rửa.
* Lời
rao giảng sự sám hối (7-10)
Lời
rao giảng của Gioan mà Mt ghi lại là những lời đe dọa hơn là một lời
loan báo đầy tính an ủi. Giọng điệu của bài là giọng châm biếm, nội dung thì
mang tính khải huyền. Thay vì nói đến ơn cứu độ gần kề, hay là giảng về phép
rửa, Gioan cho thấy “ngày của Đức Chúa” (ngày phán xét) đã gần bên, ngày chất
chứa cơn thịnh nộ đổ xuống dân Chúa (x. Am
5,18-20; Hs 6,1-3; 9,7-9; Mk 4,6-7).
Có
những người thuộc phái Pharisêu và Xađốc đã đến có lẽ để nhận phép rửa dù không
tin, Gioan đã gọi họ bằng một tên rất nặng: “nòi rắn độc”, họ là những
đứa con thoái hóa của tổ phụ Abraham (c. 9), những cây không sinh quả (c. 10).
Không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước đã nói với cử tọa nặng lời như thế.
Và Gioan khẳng định rằng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên mọi kẻ
tội lỗi, dù là Dân Ngoại hay Do Thái; do đó, mọi người phải hoán cải và nhận
phép rửa để được tái tháp nhập vào dân Israel chân chính. Sau này tư tưởng này
được hỗ trợ bằng các hình ảnh “cái rìu”, “lửa” và “công việc sàng sảy lúa” (cc.
10.12). Đứng trước cái khối người kiêu ngạo và phản loạn này, Gioan nói như thể
để phản đối và thách thức: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa sắp giáng xuống?” Câu hỏi này là kiểu nói hùng biện nhằm nhấn mạnh
rằng không thoát được án phạt. Dù thế vị Tiền Hô cũng nói với họ một lời
khích lệ. Để tránh được “cơn thịnh nộ gần kề”, chỉ có một con đường duy
nhất, con đường hoán cải, được chứng thực không phải bằng lời nói suông, mà
bằng những công việc tốt lành (c. 8; x. 5,16). Người hoán cải là một cây
mới đang cho thấy có sự thay đổi tích cực (“quả”). Dân Do Thái tưởng rằng họ sẽ
thoát khỏi án phạt bởi vì họ là thành viên của dân Thiên Chúa tuyển chọn (“con
cháu tổ phụ Abraham”); chính sự yên tâm này đã đưa một số người đến chỗ
sống buông thả về luân lý và giải thích thái độ tự mãn tự phụ của người
Pharisêu. Gioan khẳng định rằng tư cách đó không bảo đảm gì cả và có là “con
cháu” (benayyâ’) hay là “các hòn đá” (abenyyâ’) thì cũng như
nhau. Người Do Thái tưởng có thể kết luận rằng vì Thiên Chúa đã hứa, thì Ngài
cần có Israel để trung thành với lời hứa. Gioan phản ứng để khẳng định sự tự do
hoàn toàn của Thiên Chúa: Ngài có thể hoàn tất lời hứa khi loại trừ con cháu
Abraham về xác thịt, nếu họ từ chối hoán cải, bởi vì Ngài có thể tạo thành một
Israel mới (x. Mt 8,11-12; 21,43; Rm 9,6-8). Israel là một cây, nếu
không sinh hoa kết trái tốt lành thì chỉ đáng chặt đi mà quăng vào lửa.
* Lời
rao giảng về Đấng Mêsia (11-12)
Bây
giờ bản văn giới thiệu dung mạo Đấng Mêsia. Ở đây nổi rõ những bận tâm Kitô
học, nhưng cũng có bận tâm biện giáo: tác giả giới thiệu Đức Giêsu nhưng cũng
xác định khoảng cách giữa Đức Kitô và vị Tiền Hô. Gioan đi trước Người, nhưng
chỉ như người nô lệ đi trước chủ mình, để dọn đường. Gioan làm phép rửa, nhưng
chỉ là phép rửa trong nước để thôi thúc đi tới hoán cải. Đấng Mêsia (“Đấng đang
đến”: erchomenos) thì “mạnh [quyền thế]” hơn (ischyroteros) và
làm một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. “Quyền lực” (ischys)
là một phẩm tính của Thiên Chúa; nhưng đối với Is (9,6), đây là một đặc điểm của Đấng Emmanuel, và đối với Mt,
đây là một đặc điểm của Đấng Mêsia (x. 12,29). Đứng trước Người, Gioan
không xứng đáng làm công việc của một người nô lệ thông thường là xách
dép cho chủ. Điểm này cho thấy vị Tẩy Giả hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng Mêsia.
Đấng
Mêsia được giới thiệu như là Vị thẩm phán cánh chung: Người sẽ đến với sức mạnh
của Thánh Thần Thiên Chúa để loại trừ các kẻ bất chính và bất lương. Lịch sử
Israel đã đến lúc kết thúc. Thời gian thu hoạch đã gần kề. Lúa đã được gặt về
và đập rồi, nay chỉ con chờ được rê để tách vỏ trấu ra khỏi hạt gạo. Nhưng
người nông phu (Đức Kitô) đã cầm nia trong tay mà rê sạch gạo. Rơm và trấu thì
cháy nhanh, nhưng lửa sẽ thiêu đốt người gian ác thì sẽ cháy mãi cũng như sự
gian ác của họ vẫn còn đó.
+ Kết
luận
Như
thế, bằng ba cách, Gioan đã khẳng định sự trổi vượt của Đức Giêsu: 1) Người là
Đấng mạnh hơn, Người vượt xa Gioan bằng sức mạnh thực thụ. 2) Người có phẩm giá
cao vời: ngay đến việc xách dép cho Người, Gioan cũng không xứng đáng. 3) Người
sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong
nước.
Tuy
nhiên, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả còn giúp chúng ta ở nhiều điều khác nữa.
Đây không chỉ là một hồi niệm, nhưng còn là một lời khuyến cáo
nghiêm khắc cho mọi người mọi thời. Qua bút pháp của Mt, lời rao giảng
của Gioan cũng phản ánh cuộc bút chiến giữa các Kitô hữu tiên khởi với hội
đường. Tuy nhiên, Mt cũng muốn gửi đến cho giáo đoàn Kitô hữu một sứ
điệp. Lời mời gọi “hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” hẳn là nhắm đến các
Kitô hữu hơn là đến người Pharisêu. Các Kitô hữu có thể nhìn vào người Pharisêu
như nhìn vào một tấm gương để điều chỉnh đời sống mình.
Lời
đe dọa bị kết án cũng liên hệ đến các Kitô hữu nào chỉ bằng lòng với việc nhận
bí tích thánh tẩy mà không quan tâm sống phù hợp với những cam kết đã lấy. Vẫn
còn đó ảo tưởng cho rằng mình là môn đệ của Đức Giêsu, là thành viên thực thụ
của Họi Thánh, thì đã được bảo đảm hạnh phúc muôn đời.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch
cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng
Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì
ông nói cho dân chúng biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên
Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng
thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ.
2.
Giống như các ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình,
chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am
5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình
trạng cứng cỏi. Đức tin không phải là một di sản quốc gia hay dòng tộc,
nhưng là một dấn thân của trọn vẹn con người. Trong cuộc dấn thân này,
con người cứ phải liên tục rà soát lại bản thân để có thể đáp trả trọn vẹn hơn
những đòi hỏi của Thiên Chúa.
3.
Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn
thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và
trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài
người.
4.
Các lời Gioan trách giới lãnh đạo Israel cũng liên hệ đến các nhà hữu trách của
cộng đoàn Mátthêu, cũng như tất cả các vị hữu trách của mọi cộng đoàn Kitô hữu
mọi thời. Các ngài cũng được mời gọi “sinh hoa quả tốt”. Và đây chính là tiêu
chí giúp biện phân ra các ngôn sứ thật với các ngôn sứ giả.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
[1] Accusative.
[2] Nghĩa
là không có bổ ngữ nào theo sau. Bản dịch CGKPV đã thêm “của Thiên Chúa” vào
cho rõ nghĩa.