CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG A
Is 7,10-14 ; Rm 1,1-7 ; Mt 1,18-24
SỐNG CÔNG CHÍNH ĐÓN MỪNG ĐẤNG EMMANUEN
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG:
Mt 1,18-24.
(18) Sau đây
là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a Mẹ Người, đã thành hôn với
ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do
quyền năng Chúa Thánh Thần. (19) Ông Giu-se chồng bà là người công
chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín
đáo. (20) Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến
báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se là con cháu Đa-vít, đừng ngại
đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng
Chúa Thánh Thần. (21) Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ
là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.
(22) Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia
Chúa phán qua miệng ngôn sứ: (23) “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và
sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa
là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. (24) Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như
sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (25) Ông không ăn ở với bà, cho
đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay đề cao đức công chính của
thánh Giu-se, biểu lộ qua cách xử lý trước việc thụ thai lạ lùng
của Đức Ma-ri-a.
3. CHÚ
THÍCH:
- C 18-19: + Bà Ma-ri-a Mẹ Người: Ma-ri-a là tên của Đức Ma-ri-a, là Mẹ sinh ra Đức Giê-su.
+
Đã thành hôn với ông Giu-se: Theo phong tục Do thái, nghi lễ
đính hôn cử hành trước lễ rước dâu cả năm trời. Thường thì hai người
không chung sống trước lễ rước dâu. Nhưng nếu có con trong thời gian
này thì vẫn được công nhận là con chính thức. Ở đây cho thấy hai ông
bà Giu-se Ma-ri-a đã là vợ chồng hợp pháp nhờ lễ đính hôn. +
Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng
Chúa Thánh Thần: Việc thụ thai của Đức Ma-ri-a không phải do
thánh Giu-se. Trước mặt người đời, Đức Giê-su được nhìn nhận là con
bác thợ mộc Giu-se, dù thực sự Giu-se chỉ là cha nuôi (x Lc 3,23). +
Giu-se là người công chính: Công chính là sự tuân giữ Lề Luật
Chúa cách trọn hảo, và đối xử công minh ngay chính với tha nhân. Sự
công chính của Giu-se ở đây không phải là công chính về Lề Luật, vì
khi quyết định bỏ Ma-ri-a, Giu-se không làm theo Luật dạy là làm tờ
chứng thư ly dị và trao cho vợ (x. Đnl 24,1-4). Do đó sự công chính của
Giu-se hệ tại điểm này: Một là Giu-se đã tôn trọng việc Thiên Chúa thực
hiện nơi Ma-ri-a. Hai là Giu-se không dám cưới một người đã được Thiên
Chúa chọn để dành riêng làm việc của Ngài. Ba là Giu-se không dám nhận
làm cha một hài nhi Thần Linh khi chưa nhận được chỉ thị từ nơi Thiên
Chúa. + Không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo:
Giu-se bị lâm vào một hoàn cảnh nan giải: Một đàng không thể nghi ngờ
người bạn mà ông biết là rất trong sạch. Đàng khác vì là người công
chính, Giu-se không dám dành cho mình người phụ nữ mà Thiên Chúa đã
chọn. Ông phải làm thế nào để vừa bảo toàn được danh dự cho Ma-ri-a,
vừa giữ được sự công chính ? Cuối cùng ông quyết định âm thầm bỏ
Ma-ri-a để con trẻ sinh ra vẫn có cha, mà ông cũng giữ được sự công
minh chính trực trước mặt Thiên Chúa.
- C 20-21: + Ông đang toan tính như vậy: Giu-se chưa kịp thi hành ý định thì Thiên Chúa đã
sai thiên thần đến trấn an và trao sứ mệnh cho ông. + Này ông Giu-se là con cháu
Đa-vít: Giu-se được trao sứ mệnh làm cha để con trẻ Giê-su được
thuộc về dòng dõi Đa-vít, hầu ứng nghiệm lời sứ thần: “Thiên Chúa
sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít tổ tiên Người” (x. Lc 1,32), và
lời tuyên sấm của các ngôn sứ về dòng dõi Đấng Thiên Sai (x. Is 9,6; 2
Sm 12,16). + Đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang
là do quyền năng Chúa Thánh Thần: Sứ thần đánh tan sự e ngại
của Giu-se bằng cách ra lệnh cho ông mau tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a
về làm vợ mình vì việc thụ thai là do quyền năng của Thiên Chúa. + Ông
phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su: Đặt tên cho con trẻ là thừa
nhận mình là cha của con về pháp luật. Tên Giê-su hay Giô-suê, Giê-su-a
có nghĩa là “Gia-vê Đấng cứu độ”. Đây cũng là tên riêng của nhiều
người khác trong thời Cựu Ước (x. Xh 24,13; Nkm 7,7). + Vì chính Người sẽ cứu dân
Người khỏi tội lỗi của họ: Sứ mệnh của Con trẻ là cứu dân
khỏi quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết (x. Tv 130,8), khác
với quan niệm cứu thế mang tính trần tục mà dân Do thái đang mong
đợi.
- C 22-23: + Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và
sinh một con trai: Đây là lời
tuyên sấm của I-sai-a (x. Is 7,14) nói lên tính siêu phàm của Đấng Thiên
Sai. Người do một bà mẹ đồng trinh sinh ra. + Em-ma-nu-en: nghĩa là
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tên gọi này bao hàm sứ mệnh của Đấng
Thiên Sai: Nhờ Đức Giê-su mà Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để
cứu độ họ. Tin mừng Mát-thêu cũng kết thúc bằng lời hứa của Đức Giê-su:
“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
- C 24-25: Sau khi được sứ thần báo mộng, Giu-se không còn
ngần ngại. Ông lập tức tổ chức lễ cưới đón Ma-ri-a về nhà làm vợ
như lệnh sứ thần truyền. + Ông không ăn ở với bà: Sở dĩ
ông Giu-se đón Ma-ri-a về nhà làm vợ mà lại không ăn ở với bà như vợ
chồng, vì ông tôn trọng lời khấn trọn đời đồng trinh của Ma-ri-a khi
“Xin Vâng” để đáp lại lời Chúa mời gọi làm Mẹ của Đấng Cứu Thế (x.
Lc 1,31.38). + Cho đến khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là
Giê-su: Giu-se đã vâng lời sứ thần để đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
4. CÂU HỎI:
Một số
người Tin Lành đã dựa vào chữ “cho đến khi” này để khẳng định:
Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi sinh Hài Nhi Giê-su như lời ngôn sứ
I-sai-a. rồi sau khi sinh, bà lại sống đời làm vợ của ông Giu-se theo
đúng nghĩa vợ chồng, nghĩa là có ăn ở với nhau và đã sinh thêm
nhiều con trai con gái khác như Tin Mừng Mát-thêu ghi lại (x. Mt 13,55).
Ngoài ra, Tin Mừng Lu-ca cũng có câu: “Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”
(x. Lc 2,7).
*GIẢI ĐÁP:
- Chữ “Cho đến
khi” trong câu này không có nghĩa là Giu-se đã không ăn ở với
Ma-ri-a cho đến khi bà sinh con, rồi sau đó ăn ở như vợ chồng sau khi bà
sinh con. Vì khi viết câu này, tác giả Mát-thêu chỉ muốn nhấn mạnh
tới sự kiện Giu-se đã không can thiệp gì vào việc Ma-ri-a sinh con,
đúng như lời sấm của I-sai-a về một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con
trai (x. Is 7,14). Mát-thêu không lưu tâm tới việc hai ông bà có ăn ở
với nhau như vợ chồng hay không sau khi bà sinh con, vì câu Tin Mừng chỉ
viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi sinh một con trai, và ông đặt
tên cho con trẻ là Giê-su” (c. 25).
- Về chữ “con
trai đầu lòng” (Lc 2,7), Lu-ca chỉ nhắc lại khoản luật trong Xuất
hành (x. Xh 13,2.12.15) sắp được áp dụng cho Đức Giê-su (x. Lc 2,23). Con
trai đầu lòng ở đây chỉ có nghĩa là “đứa con thứ nhất, đứa con sinh
ra đầu tiên” (primo genitus) chứ không ám chỉ còn có các con khác sẽ
sinh ra sau đó.
- Tin Mừng Mát-thêu cũng trưng dẫn lời của một thính
giả thông báo rằng: “Thưa Thầy, có mẹ
và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy”
(Mt 12,47). Câu này tượng tự câu nhận định của dân làng Na-da-rét về
Đức Giê-su: “Anh em của ông không là
các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Si-mon và Giu-đa sao ? Và chị em của ông
không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mt 13,55-56; Mc 6,3).
Đây là những anh em bà con của Đức Giê-su mà thôi. Nếu thực Đức Giê-su
có nhiều anh chị em ruột khác thì người ta đã phải nói: Kìa có Mẹ
và các em trai… Các em gái của Thầy” thay vì chỉ nói anh em hay chị
em của ông như câu trên. - Cuối cùng sách Công Vụ Tông Đồ cũng viết:
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng
với mấy người phụ nữ, với bà
Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với các anh em của Đức Giê-su” (Cv
1,14). Anh em đây chỉ là bà con họ nội về phía thánh Giu-se.
- Bằng chứng cho thấy Đức Giê-su là con trai duy nhất
của Đức Ma-ri-a là trước khi chết, Đức Giê-su đã trối Mẹ Ma-ri-a để
làm mẹ của Gio-an và trối Gio-an để làm con của Mẹ. Và “Kể từ giờ
đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Nếu có anh chị em
khác nữa thì Đức Giê-su chắc đã không làm như vậy và môn đệ Gio-an
cũng không thể rước Đức Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho
Thầy Giê-su được.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Ông Giu-se chồng bà là người công chính (Mt 1,19)... Khi tỉnh giấc, ông
Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy (Mt 1,24).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) MỘT HÀNH
ĐỘNG KHIÊM TỐN VÀ TRUNG THỰC
Khi vụ OÁT-TƠ GHẾT (Water Gate) xảy ra, thì Tổng
Thống NÍCH-SƠN (Nixon) vốn được dân chúng Hoa Kỳ tín nhiệm và đánh
giá cao, đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Cũng vì muốn
thắng cử mà Ních-sơn đã biết nhưng làm ngơ cho các thuộc hạ tổ chức
nghe lén điện thoại của đảng đối lập. Bây giờ bị họ phát hiện và
ghép vào tội nghe lén, một hành động vi phạm pháp luật Hoa Kỳ. Ông
mất ăn mất ngủ trong nhiều ngày để tìm lối thoát trong danh dự. Thế
rồi một ngày nọ, sau khi làm việc ở văn phòng tại Tòa Bạch Ốc về
nhà, Ních-sơn ngồi một mình khá lâu trong phòng riêng. Bỗng ông nhìn
thấy cuốn Thánh Kinh đang nằm trên bàn làm việc. Ông liền cầm lấy mở
ra và đọc được câu lời Chúa như sau: “Sự thật sẽ giải thoát các
ngươi”. Về sau ông cho biết: Chính lời đó đã nhắc nhở ông phải trung
thực trong hành động. Thế là ông mau chóng quyết định dứt khoát. Mấy
ngày sau đó, người ta thấy ông xuất hiện trên truyền hình phát sóng
đi toàn nước Mỹ chính thức nhận lỗi, và xin tha thứ. Ông cũng chính
thức xin từ chức Tổng Thống, một chức vụ đầy quyền lực và vinh
quang mà nhiều chính khách luôn mơ ước. Đây là một hành động được
đánh giá là can đảm và có một không hai trong lịch sử Hoa Kỳ. Chính
nhờ sự can đảm trung thực và khiêm tốn nhận lỗi đó mà dân chúng đã
thông cảm và kính phục ông như trước.
2) GƯƠNG
KHIÊM TỐN CẦN KIỆM CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ:
Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ là người châu Mỹ Latin đầu tiên
và cũng là một tu sĩ dòng Tên đầu tiên được bầu vào vị trí lãnh đạo Giáo hội
Công giáo.
Tờ báo New York Times (Mỹ) đã nhận định việc
bầu chọn Hồng y GIOOC-DƠ MA-RI-Ô BEC-GÔ-GLI-Ô, 76 tuối, làm giáo hoàng thứ 266
thể hiện quyết tâm mang tính lịch sử của Hội Đồng Hồng Y là cải tạo Giáo hội
Công giáo trước nhiều áp lực hiện tại. Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ được kỳ
vọng sẽ mang lại sự cởi mở mạnh mẽ hơn cho Giáo hội Công giáo.
Ngài được sinh ra trong một gia đình nhập cư gốc Ý tại thủ
đô BUENOS AIRES (Argentina), nổi tiếng là một người khiêm nhường, luôn lên
tiếng bênh vực người nghèo và có một cuộc sống cần kiệm khiêm tốn.
Vị Tân Giáo hoàng đã bay đến thủ đô RÔ-MA nước Ý để tham dự
Mật nghị Hồng y bằng vé máy bay hạng du lịch rẻ tiền. Sau đó ngài cũng đã kêu
gọi người dân ÁC-HEN-TI-NA hãy chia sẻ số tiền vé máy bay cho người nghèo, thay
vì phải bay đến Rô-ma để chúc mừng ngài. Tờ New York Times đã dẫn lời linh
mục FÊ-ĐÊ-RI-CÔ LOM-BÁC-ĐI, phát ngôn viên của Vatican, cho biết Giáo hoàng PHAN-XI-CÔ
đã có một hành động khiêm tốn là lập tức gọi điện cho vị Giáo hoàng tiền nhiệm BÊ-NÊ-ĐÍCH-TÔ
ngay sau khi vừa được Mật nghị bầu chọn làm Giáo Hoàng.
Một phát ngôn viên khác của Vatican, linh mục THOMAS
ROSICA, cũng thuật lại về cuộc gặp gỡ với các bạn trẻ trong Ngày Giới Trẻ Thế
giới (World Youth Day) ở CANADA cách đây 10 năm. Khi đó, Đức Giáo
Hoàng đang là Tổng giám mục BUENOS AIRES cho biết: ngài đã bán ngôi biệt thự
dành riêng cho Tổng giám mục để ra sống ở một căn hộ giản dị bên ngoài Tòa
Tổng giám mục. Ngài cũng tự nấu ăn và thường đi lại bằng xe buýt, thay vì đi xe
hơi công vụ.
Khi Đức Giáo Hoàng PHAN-XI-CÔ mới được bầu chọn, Tổng
thống Mỹ BA-RACK O-BA-MA là một trong những nhà lãnh đạo thế giới đầu tiên đã gửi
lời chúc mừng ngài. Từ Nhà Trắng, ông đã
phát biều về vị Tân Giáo Hoàng như sau: “Với tư cách là nhà vô địch của người
nghèo và những người yếu đuối, Đức Giáo Hoàng đã truyền bá thông điệp của lòng
yêu thương và sự cảm thông cho thế giới hôm nay”.
3) HỘI THÁNH
PHẢI TRỞ THÀNH EM-MA-NU-EN, CHAN HÒA GIỮA MỌI NGƯỜI:
Có một cuốn phim do đạo diễn đã sáng tác ra mang ý nghĩa
rất phù hợp với mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta như sau:
Một Đức Giáo hoàng kia không thích lễ nghi rườm rà trong
Tòa Thánh Vatican nên đã cải trang trốn lính canh ra khỏi điện Va-ti-can và đi
lạc đến một ngôi làng hẻo lánh nghèo khó cách xa thành phố, do bị bệnh dịch hoành
hành nên ngôi làng bị cách ly với bên ngoài. Trong làng gần nhà thờ có một cái giếng
ngầm cung cấp nước cho dân làng bằng cái cối xay gió. Nhưng bấy giờ cối xay gió
đang bị hư và không ai biết sửa đành bỏ không. Cuộc sống của dân làng rất khổ
cực khiến giáo dân chỉ lo chữa bệnh và kiếm ăn nên không ai đến nhà thờ dự lễ Chúa
Nhật như trước, nên nhà thờ bị bỏ hoang tiêu điều. Rồi chính Linh mục chính xứ bị
thất nghiệp nên bỏ nhà thờ đi ra ngoài làm nghề chăn cừu cho một nhà giàu. Trước
hoàn cảnh đó, Đức Giáo hoàng đã đã dấn thân khôi phục: kêu gọi dân làng làm vệ
sinh môi trường cho khu nhà thờ bằng việc hốt rác, đi tiếp xúc với những trẻ em
bụi đời, và động viên nhiều người hợp tác sửa lại cối xay gió kéo nước ngầm cho
dân làng. Sau một thời gian làm việc vất vả với rất nhiều khó khăn trở ngại.
Cuối cùng cối xay gió đã được sửa chữa và hoạt động bơm nước lại. Cho tới lúc
đó dân làng mới biết Ngài chính là Giáo hoàng bị mất tích và được người ta đến
đón về Tòa Thánh.
Cuốn phim kết thúc với cảnh Đức Giáo hoàng chủ tọa một
Thánh lễ có rất đông người tham dự, trong đó có dân chúng của cái làng nghèo
khổ kia và cả vị Linh mục chính xứ nữa đã quay về nhà thờ ở với đoàn chiên là giáo
dân của mình.
Bài học đạo diễn muốn nới qua cuốn phim là: Nếu Hội
thánh chỉ sinh hoạt trong các lễ nghi ở nhà thờ thì sẽ dần dần xa lìa dân chúng
và quần chúng cũng xa lìa Hội thánh. Nhưng nếu Hội thánh biết quan tâm ở cùng
dân chúng để dấn thân phục vụ các nhu cầu thiết thực của họ, thì quân chúng
cũng sẽ đến liên kết quanh Hội thánh. Ngôi Hai Thiên Chúa đã giáng sinh làm
người, trở thành EM-MA-NU-EN nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta",
thì Hội thánh cũng phải ở cùng các tín hữu và mỗi tín hữu cũng sẽ là EM-MA-NU-EN
đối với lương dân.
4) PHỤC VỤ CHÚA
HIỆN THÂN NƠI NHỮNG NGƯỜI NGHÈO HÈN:
Vào một buổi sáng mùa đông, một bác thợ giầy kia đã thức
dậy rất sớm. Bác ta mau dọn dẹp chỗ làm việc sạch sẽ ngăn nắp rồi đến ngồi vào
ghế tại phòng khách chờ đợi vị khách quí sắp đến thăm. Vị khách đó không ai
khác hơn chính là Chúa Giê-su. Vì đêm vừa qua, trong giấc mơ, bác đã được Người
hiện ra báo chính Người sẽ đến thăm bác trong ngày hôm nay.
Bác thợ giầy ngồi trong phòng khách chờ đợi Chúa đến
trong tâm trạng rất háo hức vui mừng. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung
cửa, bác liền nghe thấy tiếng gõ cửa. Lòng hồi hộp sung sướng, bác vội ra mở
cửa, tưởng sẽ được gặp Chúa. Nhưng kẻ đang đứng trước mặt không phải là Chúa
Giê-su mà là người đi phát thư mọi khi.
Chính
tiết trời mùa Đông lạnh giá đã làm cho mặt mũi tay chân của người phát thư bị
sưng đỏ. Bác thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện phải bị rét run đứng
ngòai cửa, nên mời ông ta vào nhà, rồi bác đi pha một bình trà nóng bưng ra mời
khách. Sau khi đã được sưởi ấm và uống nước trà nóng, người phát thư đứng dậy
cám ơn và tiếp tục công việc.
Bác
thợ giầy lại vào phòng khách ngồi chờ Chúa đến. Nhìn qua khung kính, bác thợ
giầy thấy một bé gái đang khóc ngay trước cửa nhà. Bác ra mở cửa hỏi thì được
biết trên đường đi chợ về nhà, em đã lạc mất mẹ và do tuyết rơi trắng xóa đường
đi nên em không tìm ra lối trở về nhà. Người thợ giầy liền lấy giấy bút viết
vài chữ thật to dán ngoài cánh cửa để báo cho vị khách quý Giê-su biết mình có
việc gấp phải vắng nhà một lát.
Nhưng
đi tìm đường để dẫn em bé kia về nhà trong cảnh đường trắng xóa không dễ chút
nào, hai ông cháu nhiều lần bị lạc đường, nên mãi đến chiều bác mới tìm ra nhà của
em nhỏ, và khi quay lại nhà mình thì trời đã tối mịt.
Về
đến nhà, bác thấy có một người đang ngồi trước nhà đợi bác, nhưng không phải là
Chúa, mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà
đang ốm nặng và bà đã không biết phải trị bệnh thế nào cho con. Nghe thế, bác thợ
giầy lại hối hả đến nhà bà và giúp bà đưa con đến bệnh viện săn sóc.. Mãi đến nửa
đêm khi về lại nhà thì vì quá mệt nên bác đã vội nằm lăn ra giường ngủ luôn không
kịp thay quần áo ăn bữa tối. Rồi trong giấc mơ, bác thợ giầy nghe thấy tiếng
Chúa nói thầm bên tai: ”Hôm nay Ta cảm ơn con đã cho ta uống ly trà nóng. Cám
ơn con đã dẫn đường cho Ta bị lạc về tới nhà. Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta khi
bị đau ốm. Cám ơn con đã đón tiếp Ta suốt cả ngày hôm nay quên cả ăn uống”. Qua
đó bác thợ giày đã hiểu ra rằng: Giúp đỡ phục vụ người nghèo là đã phục vụ
chính Chúa Giê-su.
3. SUY NIỆM:
Chúa Nhật thứ Bốn Mùa Vọng hôm nay trình bày cho chúng ta
biết phải chuẩn bị tâm hồn thế nào để đón Chúa đến qua gương vâng phục và sống công
chính như thánh Giu-se, và giúp chúng ta sống mầu nhiệm Em-ma-nu-en của Chúa
Giê-su như thế nào:
1) GIU-SE,
ĐẤNG CÔNG CHÍNH CỦA THIÊN CHÚA:
Công chính theo nghĩa Thánh Kinh là luôn tuân giữ
Lề Luật của Chúa và cư xử với tha nhân trong tinh thần công bình và ngay
chính:
+ Giu-se luôn cư xử theo đức công bình: Ông không hề
nghi ngờ Ma-ri-a đã phạm tội ngoại tình, vì hoàn toàn tin tưởng vào sự
trong sáng của Ma-ri-a, nên đã “không tố cáo bà”.
+ Giu-se cũng là một người ngay chính: Sự ngay
chính biểu lộ qua việc ông không cưới Ma-ri-a về nhà, không dám nhận
thai nhi là con của mình và tính âm thầm bỏ đi, khi chưa hiểu thánh ý của
Thiên Chúa.
2) GIU-SE,
ĐẦY TỚ TRUNG TÍN LẮNG NGHE VÀ VÂNG PHỤC THIÊN CHÚA:
+ Tin Mừng Mát-thêu đề cập đến
việc sứ thần đến truyền tin cho ông Giu-se trong giấc mộng. Sứ thần đã
đánh tan sự bối rối của Giu-se khi cho ông biết nguồn gốc thần linh
của Thai Nhi trong lòng Ma-ri-a.
+ Sứ thần còn
lệnh cho Giu-se phải làm ba việc để cộng tác vào chương trình cứu độ:
Một là “đón Ma-ri-a về nhà” làm vợ để Ma-ri-a khỏi bị mang tiếng
oan. Hai là tôn trọng lời khấn trọn đời của Ma-ri-a bằng việc “không
ăn ở với bà”. Ba là “đặt tên con trẻ là Giê-su” để thừa nhận trẻ Giê-su
là con mình, hầu tránh cho Đức Giê-su khỏi bị tiếng xấu khi thi hành sứ
mệnh, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Khi Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba
mươi tuổi. Thiên hạ vẫn
coi Người là con ông Giu-se” (Lc 3,23).
+ Ngoài ra, Giu-se cũng bêu gương tuân giữ Luật Chúa: Dâng con đầu
lòng vào Đền thờ sau khi trẻ Giê-su sinh ra được bốn mươi ngày, rồi
chuộc lại bằng một cặp chim gáy hay bồ câu con theo Luật dạy. Hằng năm,
Giu-se đều đưa Đức Ma-ri-a và trẻ Giê-su hành hương về Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt
Qua. Đặc biệt năm trẻ Giê-su mười hai tuổi, đã xảy ra biến cố trẻ
Giê-su bị lạc trong Đền thờ x. Lc 2,41-52).
Thánh Giuse chính là mẫu gương đạo
đức Mùa Vọng cho các tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta hãy học với Thánh
Giuse để luôn lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nếu
chúng ta biết vâng phục và hoàn toàn tin cậy phó thác trong tay Chúa quan phòng
noi gương Giu-se, chúng ta cũng sẽ được nên công chính giống như ngài.
3) PHẢI TRỞ NÊN EM-MA-NU-EN : THIÊN CHÚA Ở CÙNG
CHÚNG TA:
Thiên Chúa đã đến ở với loài người qua
việc tạo dựng vũ trụ vạn vật “vì và cho » loài người. Ngài còn luôn quan
phòng để mọi tạo vật được tồn tại và tiến hóa theo thánh ý Ngài. Ngài còn hiện
diện với loài người qua Lời Chúa trong Thánh Kinh, để dạy dỗ loài người nhận
biết tin thờ và vâng theo thánh ý của Ngài. Nhất
là Ngài còn sai Con Một xuống trần gian nhập thể làm người, trở thành Đấng Em-ma-nu-en,
nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, để ban ơn cứu độ cho chúng ta.
Trong những ngày chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, mỗi người chúng
ta cần nhận ra Đức Giê-su- là Đấng “Em-ma-nu-en”, đang ở với chúng ta qua mọi người
chung quanh, nhất là nhận ra Chúa đang hiện thân qua những người nghèo hèn, đau
khổ, tật bệnh và bị bỏ rơi… để khiêm tốn phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, là
điều kiện để nhận ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế.
4. THẢO
LUẬN: Trong những ngày Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để trở
thành một người công chính noi gương thánh Giu-se ? Bạn sẽ ứng xử thế nào
đối với những người nghèo hèn là hiện thân của Chúa Giê-su là Đấng EM-MA-NU-EN
?
5. NGUYỆN
CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con biết hy sinh
quên mình để lo công việc của Chúa như thánh Giu-se hôm nay. Xin cho
chúng con luôn sẵn sàng làm theo ý Chúa như ngài. Ước gì mỗi ngày
con tập bỏ đi một sở thích không cần thiết, bỏ qua một lời nói đụng
chạm đến tha nhân. Ước gì chúng con nhìn thấy Chúa đang ở trong những
người đau khổ nghèo hèn chung quanh để ân cần phục vụ họ, hầu sau này
chúng con đáng được Chúa đón về quê trời hưởng hạnh phúc muôn đời.
- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết sống khiêm
nhường, luôn tin cậy phó thác vào Chúa Quan Phòng như Đức Ma-ri-a xưa.
Trong những giờ phút đen tối của cuộc đời, khi chúng con bị người
thân hiểu lầm, bị người chung quanh nói xấu xa lánh mà không thể tự
mình giải oan, xin giúp chúng con luôn bình tĩnh cậy trông phó thác
trong tay Chúa quan phòng như Mẹ khi xưa. Chúng con tin rằng Chúa sẽ kịp
thời giải oan và còn “biến sự dữ ra sự lành” để giúp chúng con được
hưởng hồng ân cứu độ của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM