CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH A
Cv 2,14a.36-41 ; 1 Pr 2,20b-25 ; Ga 10,1-10
ĐỂ NÊN MỤC TỬ NHÂN LÀNH NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga
10,1-10
(1) “Thật, tôi
bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua
lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua
cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta
vào, và chiên nghe tiếng của anh, anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng
ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì
chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng
sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. (6) Đức
Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người
nói với họ. (7) Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi bảo thật các
ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là
trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà
vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10)
Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến
để cho chiên được sống và sống dồi dào.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su vừa là
mục tử vừa là cửa chuồng chiên:
- LÀ MỤC TỬ THẬT SỰ CỦA DÂN ÍT-RA-EN: Vì Người
đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên và được người giữ cửa là Gio-an
Tẩy Giả giới thiệu. Do đó, Người được đàn chiên là dân chúng nghe theo.
Còn các đầu mục Do thái chỉ là người lạ, nên chiên chạy trốn và
không đi theo họ.
- LÀ CỬA CHO CHIÊN RA VÀO: Các luật sĩ và Biệt
phát không tin Đức Giê-su và không được Thiên Chúa ủy nhiệm coi sóc đàn
chiên. Họ leo rào mà vào chuồng nên chỉ là hạng trộm cướp. Kẻ trộm
đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên. Còn Đức Giê-su đến để
đem lại cho chiên sự an toàn, tự do, lương thực và sự sống dồi dào.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Ràn chiên: hay chuồng chiên, là hình ảnh quen thuộc của dân Do
thái vốn là một dân du mục. Ở đây ràn chiên là hình ảnh ám chỉ Giáo
hội là Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. + Cửa vào: Mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa
chính để chiên ra vào. Ai muốn được công nhận là mục tử đích thực
của Chúa phải qua cửa chính là Đức Giê-su mà vào Hội Thánh. Họ
phải được Người tuyển chọn và trao sứ mệnh chăn chiên. Còn kẻ trèo
qua lối khác mà vào, như các kinh sư hay Pha-ri-sêu, thì chỉ là mục
tử giả hiệu hay hạng trộm cướp. + Người giữ cửa mở cho anh ta vào:
Đức Giê-su chính là Mục tử đích thực, vì Người đã được người giữ
cửa là Gio-an Tẩy Giả làm chứng là “Đấng được Thiên Chúa tuyển
chọn” (Ga 1,31-34). + Và chiên nghe tiếng của anh:
Đàn chiên chỉ nhận biết và nghe theo một chủ chăn duy nhất, như các
Tông đồ đã nghe lời và đi theo một mình Đức Giê-su (x. Ga 1,35-51). + Anh
gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra: Trong ràn có nhiều đàn
chiên. Ban chiều, mỗi mục tử sẽ đưa đàn chiên vào ràn, rồi đến sáng
sẽ lại đến dẫn đàn chiên ấy ra khỏi chuồng để dẫn đến đồng cỏ cho
chúng ăn cỏ uống nước. Đây là kiểu nói cường điệu. Thực ra các mục
tử chỉ đặt tên và gọi tên một con chiên đầu đàn thôi và các con khác
sẽ theo sau con chiên đầu đàn này ra ngoài. Ở đây Đức Giê-su nhấn mạnh
tinh thần trách nhiệm của Người là vị Mục tử tốt lành, khác với
các Pha-ri-sêu và kinh sư là những kẻ chăn thuê vô trách nhiệm.
- C 4-6: + Anh ta đi trước và chiên đi theo sau: Câu này nhắc đến sứ mệnh Mục tử của Đức Giê-su:
Khi đã kéo Môn đệ ra khỏi thế gian (x. Ga 15,19). Người đi tiên phong
dẫn họ tới đồng cỏ non là Hội Thánh. Chiên sẽ nhận biết tiếng nói
và chỉ đi theo Mục tử Giê-su, vì Người luôn nói Lời của Thiên Chúa
cho họ (x. Ga 14,10). + Chúng sẽ không theo người lạ,..:
Người lạ là những kẻ không do Thiên Chúa sai đến, nhưng đã leo rào mà
vào. Người lạ ám chỉ các đầu mục dân Do thái đương thời. Vì họ không
phải là mục tử đích thực, nên chiên đã không đi theo họ mà trái lại
chúng còn lẩn trốn họ nữa.
- C 7-8: + Tôi là cửa cho chiên ra vào: Vì thính giả không hiểu ý nghĩa dụ ngôn, nên Đức
Giê-su phải giải thích rõ ràng: Người chính là cửa chuồng chiên tức
là cửa ngõ để vào Nước Trời, mà ai muốn vào Nước Trời ấy đều phải
tin Người. + Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không
nghe họ: Mọi kẻ đến trước ở đây không nhằm chỉ các ngôn sứ
Cựu Ước, mà chỉ nhắm tới những kẻ không được Thiên Chúa sai như các
pha-ri-sêu và kinh sư Do thái (x. Mt 23,1-8). Họ bị Đức Giê-su quở trách
là bọn đạo đức giả, cản đường người khác gia nhập Nước Trời, có
lòng tham lam, ăn ở bất công, dẫn dường đui mù và đã từng giết hại
nhiều vị ngôn sứ chân chính (x. Mt 23,13-32).
- C 9-10: + Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì
sẽ được cứu: Đức Giê-su là con đường người
ta phải đi ngang qua để được vào Nước Trời. Tương tự như câu: “Thầy là
đường…Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). +
Người ấy sẽ ra vào: Ra vào nghĩa là được tự do đi lại. +
Gặp được đồng cỏ: Trong Đức Giê-su, các tín hữu sẽ được cứu
khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỷ. Họ sẽ được hưởng tự do đích
thực (x. Ga 8,31-36). Nhờ Đức Giê-su, họ sẽ tìm được của nuôi thân là
Nước hằng sống và Bánh trường sinh (x. Ga 4,14 ; 6,35). + Kẻ
trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy: Kẻ trộm ám
chỉ các đầu mục Do thái, vì không được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ đã
leo rào mà vào chuồng chiên. Họ chỉ đi tìm lợi ích cho bản thân hơn
là lợi ích của đàn chiên (x. Mt 23,4-7). + Tôi đến cho chiên được sống
và sống dồi dào: Nhờ có lương thực là Lời Chúa và Thánh
Thể, mà đức tin của các tín hữu sẽ trở nên vững mạnh và có được
sự sống đời đời.
4. CÂU HỎI:
1) Ràn chiên
nghĩa là gì và là hình ảnh ám chỉ điều gì? Cửa vào ám chỉ ai? 2)
Đức Giê-su là Mục Tử thực sự của đoàn chiên vì đã được Gio-an Tẩy
Giả là người giữ cửa làm chứng như thế nào? 3) Đàn chiên chỉ nhận
biết tiếng nói và đi theo ai? Phải chăng mọi con chiên đều được đặt tên
và mỗi buổi sáng người mục tử phải gọi tên từng con chiên để dẫn
chúng ra khỏi chuồng? 4) Ý nghĩa của câu: anh ta đi trước và chiên đi
theo sau… là gì? 5) Tại sao đàn chiên không nghe theo người lạ? Người lạ
nói đây ám chỉ những ai? 6) Những kẻ đến trước được liệt vào hạng
trộm cướp nói đây ám chỉ ai? Tại sao? 7) Đức Giê-su tự nhận mình là
cửa chuồng chiên mà ai muốn vào chuồng chiên phải đi qua, giống như nơi khác
Người đã tự ví mình là gì? 8) Kẻ trộm đầu mục Do thái khác với vị Mục Tử
tốt lành là Đức Giê-su thế nào?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LÒI CHÚA:
“Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào
và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9)
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC GIO-AN
PHAO-LÔ II – HÌNH ẢNH MỤC TỬ NHÂN LÀNH :
Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Gio-anPhaolô II đã được
Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh. Người là một người môn đệ đã hoạ lại rõ
nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí Thánh Giê-su. Một vị mục tử luôn làm
việc : Cho dù tuổi đã cao lại thêm nhiều bệnh tật, thế mà ngài vẫn luôn
hiện diện bên đàn chiên, vẫn lên tiếng gọi đàn chiên, vẫn là chỗ dựa vững chắc
và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục
Lê-ô-nar-do San-dri, thứ trưởng Ngoại giao của Toà Thánh đã nói với toàn thể
thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi trở thành những đứa con mồ côi”.
Tại sao người ta lại tỏ lòng thương tiếc một cụ già như
thế? Có phải người ta ngưỡng mộ Ngài vì ngài nhiều tiền, nhiều quyền thế không?
Thưa không phải thế. Người ta thương tiếc ngài như một mục tử đã sống hết mình
vì đàn chiên. Một mục tử canh giữ hoà bình không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng
tỉ người trên khắp hành tinh này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên
của Chúa đã không ngừng bảo vệ quyền sống của con người, nhất là của các thai
nhi. Người mục tử đã không ngừng đi đến tận cùng thế giới để gieo rắc an bình,
công bình, tha thứ và yêu thương. Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ
đàn chiên, để tìm kiếm các con chiên lạc đưa về một mối và cuối đời, trong
những tiếng nấc hoà trộn với hơi thở bị ngắt quãng, ngài đã nói với đàn chiên
đang canh thức cầu nguyện cho ngài trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm
các con. Và bây giờ các con đã đến với Ta. Ta xin cám ơn các con”.
2) TINH THẦN MỤC
TỬ CỦA MỘT BÀ MẸ:
Trong cuốn tự thuật, DIM-MY CÁC-NÂY (Jimmy Cagney)
một nam diễn viên nổi tiếng ở HÔ-LI-GÚT (Hollywood) đã thuật lại câu
chuyện cảm động về bà mẹ của ông. Câu chuyện xảy ra vào thời thơ ấu
của Các-nây khi mẹ ông nằm thoi thóp chờ chết. Chung quanh giường có
bốn anh em trai và một cô em gái út duy nhất. Vì bị tai biến mạch
máu não, nên bà mẹ của Các-nây không thể nói thành tiếng. Sau khi bà
cố lần lượt hôn năm đứa con, bà liền giơ cánh tay phải còn cử động
được lên. Dim-my kể lại những gì đã xảy ra như sau “Mẹ tôi dùng ngón
tay phải chỉ vào anh con trai trưởng rồi lại chỉ vào ngón tay trỏ của
bàn tay trái bị tê liệt của bà, rồi bà lần lượt chỉ vào từng người
trong mấy anh em chúng tôi, mỗi người được tượng trưng bằng một trong
bốn ngón tay trái. Riêng ngón cái thì bà chỉ vào đứa em gái út Din-ni
(Jeannie) mới ba tuổi. Bà cầm ngón cái ấy để vào giữa lòng bàn tay
và ép bốn ngón tay kia lên ngón cái ấy. Cuối cùng bà dùng bàn tay
phải vỗ nhẹ lên nắm đấm của bàn tay trái”. Dim-my nhận xét rằng cử
chỉ của mẹ ông lúc đó thật tuyệt vời. Năm anh em hiện diện đều hiểu
được ý nghĩa mà bà muốn diễn tả: Bốn anh em trai phải thay bà để che
chở và giúp đỡ cho cô em gái út bé nhỏ sau khi bà qua đời. Đó là
một cử chỉ đầy ý nghĩa mà không lời nói nào có thể diễn tả hay
hơn được. Cử chỉ ấy của bà đã để lại ấn tượng mạnh mẽ không bao
giờ phai mờ trong tâm khảm của anh em chúng tôi, khiến chúng tôi luôn
giữ lời trăn trối của bà”.
3) ĐỨC TÍNH HY
SINH CỦA NGƯỜI MỤC TỬ :
Có hai vợ chồng trẻ làm nghề đốn củi vào mùa nước lũ.
Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để
xuôi theo dòng nước quay về nhà. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt
tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc
thuyền lan nhỏ bé của họ bị bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị
nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây qua đi lại trở nên mạnh
mẽ hơn. Sức lực của anh chồng xem ra mỗi lúc đuối dần khi phải một mình bơi sải
vừa để thoát thân lại vừa phải cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã
sắp cạn kiệt, nên đã buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn đi. Chị chỉ kịp
gào thét trong cơn mưa giông và nước lũ: "Anh phải sống để nuôi dạy đàn
con anh nhé !".
4) MỤC TỬ CÓ
SỨC MẠNH BIẾN ĐỔI SỐ PHẬN ĐỜI NGƯỜI:
Dương Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó
ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam, đảo Đài Loan. Câu
chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có
hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở
thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức
nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những
người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời co thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực
rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi.
Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn
chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô:
“Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính
tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi
số phận của một con người.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và
chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu
thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què
quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc
nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí
đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của
ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình
yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
5) ĐỨC GIÊ-SU
LÀ CỬA BẢO VỆ ĐÀN CHIÊN:
George Smith kể lại một loại chuồng chiên khi đi du lịch
ở Đông phương : Bấy giờ ông cùng đi với một người chăn chiên. Thấy một chiếc
chuồng ông liền hỏi người chăn chiên:
- Đó có phải là chuồng chiên không ?
Người ấy đáp :
- Dạ, phải.
Rồi Geoge nói :
- Tôi thấy chỉ có một lối đi vào.
Giơ tay chỉ khoảng trống ở hàng rào, người ấy đáp :
- Vâng, ở đàng kia là cái cửa.
Ông Geoge rất ngạc nhiên bảo :
- Nhưng ở đó đâu có cửa ?
Người chăn chiên đáp :
- Dạ, tôi là cửa.
Geoge chợt nhớ câu truyện trong Tin Mừng Gio-an nên tiếp
tục hỏi người chăn chiên :
- Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa ?
Người chăn chiên giải thích :
- Chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ngưỡng cửa, và
sẽ không có con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể đi vào
chuồng nếu không nhảy qua người tôi.
3. SUY NIỆM:
Chúa nhật IV Phục Sinh được gọi là Chúa nhật lễ Chúa
Chiên lành. Tin Mừng Gio-an đề cập đến hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Đông:
các mục tử, cửa chuồng chiên:
1) TÔI LÀ MỤC
TỬ NHÂN LÀNH (Ga 10,7):
- Mục tử là người vào chuồng chiên ngang qua cửa chính,
chứ không lén lút leo rào mà vào chuồng (x. Ga 10,1-2). Người giữ cửa quen biết
mục tử nên sẵn sàng mở cửa, và chiên cũng quen biết mục tử quen với giọng nói
của anh, nên dễ dàng phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (x. Ga 10,3-5). Mục
tử nhân lành yêu thương chiên, biết tên và âu yếm gọi từng con chiên trong đoàn
ra ngoài. Mục tử sẽ đi trước dẫn đường, các con chiên sẽ yên tâm theo sau, vì
chúng biết đang đi theo ai và người chủ chiên sẽ dẫn chúng đi đâu. Hầu như có
một sự hiểu biết cảm thông và gần gũi giữa đoàn chiên và người mục tử.
- Trong lịch sử dân Ít-ra-en, các vua chúa và đại tư tế
được gọi là mục tử. Danh hiệu Mục Tử Nhân Lành thường được dành riêng để gọi
Đức Chúa. Qua trung gian ông Mô-sê, Đức Chúa đã dẫn đưa con dân Ít-ra-en vượt
qua Biển Đỏ, qua sa mạc 40 năm để về miền Đất Hứa dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và
con cháu đến muôn đời. Đức Chúa như người mục tử đã gắn liền số phận với đàn
chiên là dân Ít-ra-en. Hình ảnh mục tử đó chỉ được rõ nét nơi Đức Giê-su trong
thời Tân Ước sau này. Hôm nay, Đức Giê-su tuyên bố Người là Mục Tử nhân lành.
Khác với các đầu mục Do thái là bọn người chăn thuê. Chúng chỉ biết lợi dụng đàn
chiên để tìm tư lợi, Mục Tử nhân lành Giê-su yêu thương đàn chiên, hiểu biết
từng con, luôn phục vụ đàn chiên và sẵn sàng thí mạng sống bảo vệ đàn chiên
khỏi bị sói dữ cắn xé. Đáp lại, con chiên cần nghe tiếng chủ chiên, yêu mến và
vâng lời chủ chiên. Đức Giê-su tóm lại sứ mệnh mục tử của Người như sau: “Kẻ
trộm đến chỉ để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên
được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
2) TÔI LÀ CỨA CHUỒNG CHIÊN (Ga 10,9) :
Sau khi đã tự mô tả là một người mục
tử nhân lành, Đức Giê-su lại nhận mình là cửa chuồng chiên. Hôm nay Đức Giê-su
tuyên bố: « Tôi là cửa cho chiên ra vào… Tôi là cửa. Ai qua tôi mà
vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng
cỏ » (Ga 10,7.9). Đức Giê-su chính
là mục tử chăn dắt đoàn chiên là các tín hữu. Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn
trộm, giết hại và phá hủy, Đức Giê-su đến để cho chiên được sống, và sống dồi
dào (x. Ga 10,10).
- Cửa chuồng chiên là lối cho chiên ra
vào chuồng để được bảo vệ an toàn và được sống dồi dào. Chỉ người nào đi qua
Cửa chuồng chiên Giê-su tức là Hội Thánh thì người ấy mới là mục tử thực sự của
Thiên Chúa và mới được hưởng ơn cứu độ của Ngài ban cho (x. Ga 10,9). Thánh Gio-an
Kim Khẩu nói: “Khi Đức Giê-su đưa chúng ta đến với Chúa Cha, Người nhận mình là
Cửa. Khi Người săn sóc dưỡng nuôi ta, Người nhận mình là Mục Tử”. Cửa Giê-su
cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật : Mục tử giả sẽ không dám đi ngang qua
Cửa Giê-su để vào chuồng chiên. Chớ gì Hội Thánh có nhiều mục tử thực sự của Chúa
Giê-su, có tình yêu thương thể hiện qua lối sống gần gũi « có mùi
chiên », biết tên từng con chiên và mang lại cho chiên của ăn thiêng liêng
là Lời Chúa và Thánh Thể đem lại sự sống dồi dào.
3) NGUYÊN NHÂN THIẾU ƠN THIÊN TRIỆU TRONG CÁC NƯỚC TÂN
TIẾN ?
a) Hiện nay nhiều nơi trên thế
giới nhất là tại các nước Âu Mỹ, đang thiếu trầm trọng ơn gọi linh
mục tu sĩ. Nhiều nhà thờ không có linh mục nên phải đóng cửa hoặc
bán đi để trả nợ. Cũng có nhiều dòng tu bị giải thể vì không còn
lớp tu sĩ trẻ kế thừa.
b) Hiện tượng thiếu ơn gọi linh
mục tu sĩ thường do mấy nguyên nhân như sau:
- Một là vì các đôi vợ chồng trẻ
do thói ích kỷ nên không muốn sinh nhiều con, để dành tiền bạc và thời gian
phục bụ cho các nhu cầu riêng của mình.
- Hai là các người trẻ hôm nay
luôn chịu ảnh hưởng của lối sống thực dụng và hưởng thụ: chỉ biết
tìm thỏa mãn các đam mê nhục dục thấp hèn, các nhu cầu ích kỷ bản
thân… và mất đi cảm thức đức tin.
- Nhưng nguyên nhân quan trọng
nhất có lẽ là do người lớn đã không nhiệt tâm cổ võ cho ơn thiên
triệu và không quảng đại hiến dâng con mình cho Chúa và Hội Thánh.
- Mỗi Giáo xứ phải trở thành
vườn ươm trồng ơn thiên triệu: Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II trong sứ
điệp về ơn gọi năm 1996 đã nhắc đến việc cần phải làm là tạo một
môi trường thuận lợi cho hạt giống ơn gọi dễ phát triển là các giáo
xứ. Ngài nói như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo xứ trở thành một
cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu nguyện, hăng say làm
việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo khổ. Giới
trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại, không thiếu những
người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý nghĩa. Họ cần được
Hội Thánh hướng dẫn để gặp được Đức Giê-su, để nghe lời Người và
theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ mệnh cứu độ của
Người. Giới trẻ hôm nay cũng cần được nghe những tiếng kêu than của
bao người đói khát chân lý hay đang cần được công lý bảo vệ. Hội
Thánh phải giúp giới trẻ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây
dựng thế giới này trở thành một ngôi nhà của tình thương và hạnh
phúc. Giới trẻ cũng cần có những người thầy, người bạn dám sống niềm
tin giữa muôn trở lực khó khăn, và luôn đứng vững trước sức mạnh của
các cám dỗ muốn thỏa mãn các đam mê bất chính”.
4) LÀM GÌ ĐỂ GIÚP HỘI THÁNH THÊM NHIỀU LINH MỤC TU
SĨ ?
a) Hỗ trợ của các bậc cha
mẹ trong gia đình: Hiện nay sở dĩ thiếu ơn gọi một phần cũng là do
lỗi của chúng ta chưa thiết tha cầu xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt
đến, chưa quyết tâm trở thành chứng nhân của Chúa, chưa quảng đại dâng
con và khuyến khích chúng quảng đại phục vụ Chúa và Hội Thánh trong bậc
tu trì.
b) Vai trò của gương sáng: Đức Giáo
hoàng Phan-xi-cô đã nói về các mục tử trong Hội Thánh như sau: “Giám Mục không
phải là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không
phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục vụ, nuôi dưỡng, chăm
sóc dân là đoàn chiên của ngài…” Đức Giáo Hoàng đòi hỏi linh mục như sau :
“Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.” Hiện
nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người chưa biết Chúa, hoặc đã biết
Chúa nhưng chối bỏ đức tin, cố tình loại Chúa ra khỏi cuộc đời mình… Các cha xứ
phải đi tìm kiếm họ để an ủi, chữa lành và giúp họ trở về với Chúa.
c) Gây ý thức về tầm quan trọng và
nhiệm vụ ươm trồng ơn thiên triệu : Mỗi người chúng ta cần cầu nguyện cho mình
sống đúng vai trò là linh mục, là quý chức giúp việc, là chồng vợ, cha mẹ và
con cái trong gia đình.
d) Quảng đại đóng góp tinh thần vật
chất cho chủng viện : Các gia đình, hội đoàn, giáo xứ… hãy quảng đại để
tích cực cộng tác với Hội Thánh ươm trồng ơn thiên triệu và có thêm nhiều linh
mục tu sĩ hiến thân chăm sóc đàn chiên và loan báo Tin Mừng cho an hem lương
dân chưa nhận biết Chúa, vì « lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt ».
4. THẢO LUẬN:
Theo bạn mục tử tốt như lòng Chúa mong ước hôm nay
cần có những phẩm chất nào : khôn ngoan, đạo đức, có bằng cấp cao, thông
thạo ngoại ngữ, đàn hay hát giỏi, giảng hấp dẫn, nhiệt tình tông
đồ, sống đơn giản, dấn thân hy sinh, chu toàn bổn phận, thái độ khiêm
tốn, hiền hòa, vui vẻ, tiết độ, trung thực, vị tha, đúng đắn trong
giao tiếp, quan tâm đến giới trẻ, có lòng thương xót ? Tại sao ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho
chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh trong đời phụng sự
Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái
tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để
sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và
bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh,
luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được
chính Chúa. Xin ban cho chúng con những linh mục biết chăm chỉ rao
giảng Lời Chúa, có sức làm nóng lên đức tin yếu kém và làm bùng
cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức
tin để nhìn thấy Chúa trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho
chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành noi gương Chúa
xưa, đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM