CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN A
2V
4,8-11.14-16a; Rm 6,3-4.8-11; Mt 10,37-42
ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ
THÀNH MÔN ĐỆ CỦA CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG:
Mt 10,37-42
(37) “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với
Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (38)
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. (39) Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất.
Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. (40) Ai đón tiếp
anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. (41)
Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng
dành cho bậc ngôn sứ : Ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người
công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. (42) Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ
này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì
Thầy bảo thật anh em : Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
2. Ý CHÍNH: Người môn đệ phải đặt tình yêu Chúa Giê-su lên trên mọi
tương quan tình cảm gia đình ruột thịt. Những ai sẵn sàng đón nhận gian khổ
thập giá để đi theo và cùng chết với Đức Giê-su thì sẽ tìm lại được sự sống đời
đời cho mình sau này. Đức Giê-su cũng tự đồng hóa Người với các vị thừa sai sau
này và hứa ban cho những ai sẵn sàng đón tiếp các ngài, sẽ được Thiên Chúa ban
thưởng bội hậu ở trên trời.
3.CHÚ THÍCH:
- C 37: + Ai yêu
cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy… : Ở đây Đức Giê-su tỏ ý “ghen tương” giống như sự ghen yêu
của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en thời Cựu Ước (x. Đnl 29,17-19 ; 32,16-21).
Đức Giê-su không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh tranh với tình yêu dành
riêng cho Người. Kẻ nào muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su mà còn quá quyến luyến
với tình cảm gia đình, thì không xứng đáng với tình yêu của Người. Kẻ nào không
nhìn nhận sự tối thượng của Người cũng không thể làm môn đệ của Người được. Sở
dĩ Người đòi hỏi trung thành tuyệt đối như vậy, vì Người chính là Thiên Chúa
làm người, đến để chịu chết đền tội thay cho loài người.
HỎI : Với đòi hỏi như thế, phải chăng đi theo
Chúa là phải hoàn toàn từ bỏ mọi liên hệ gia đình ruột thịt, có thể bị người
đời kết tội là bất hiếu ?
ĐÁP :
Thực ra không phải như vậy. Vì chính Đức Giê-su là một người con hiếu thảo :
Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian ẩn dật tại Na-da-rét (x. Lc 2,51).
Dù “giờ” chưa tới, nhưng Người sẵn sàng nghe lời cầu bầu của Đức Mẹ, để làm
phép lạ đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước thành rượu ngon (x. Ga
2,4.5-8). Trước khi tắt thở trên cây thập giá, Người trối Mẹ Người làm Mẹ của
môn đệ Gio-an, để ông đem Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Người (x. Ga
19,25-27). Người dạy người ta về sự thực hành cách cụ thể giới răn “Phải thảo
kính cha mẹ”, trái với lời dạy lỗi bổn phận hiếu thảo của các luật sĩ (x. Mc
7,10-13). Nhưng đối với Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải được đặt sau bổn
phận hiếu thảo với Thiên Chúa (x. Lc 2,49). Người nhận những ai thi hành ý muốn
của Thiên Chúa chính là Mẹ và anh em của Người (x. Mc 3,33-35). Trong câu này,
Đức Giê-su chỉ muốn nói rằng : khi buộc phải chọn một trong hai tình yêu, một
là dành cho cha mẹ và hai là dành cho Đức Giê-su, thì môn đệ phải đặt tình yêu
trung thành với Chúa trên tình yêu dành cho cha mẹ.
- C 38: + Ai không
vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy : Lúc đầu có lẽ
các môn đệ đi theo Đức Giê-su do muốn được lợi lộc vật chất (x. Mt 19,27-30),
được địa vị cao khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng Người không chiều
theo ý họ, mà đòi họ phải đi con đường hẹp, leo dốc và đầy gai chông, ít người
chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là đường “từ bỏ mình, vác thập gia mình hàng ngày
mà theo chân Người” (x. Mt 16,24).
- C 39: + Ai giữ
lấy mạng sống mình, thì sẽ mất… : Giữa
hai sự sống tự nhiên và siêu nhiên, thì môn đồ phải chọn sự sống siêu nhiên.
Nếu họ chỉ lo tìm sự sống thân xác, đến nỗi từ chối Chúa để khỏi bị giết chết,
thì họ sẽ bị mất sự sống siêu nhiên đời sau. Ngược lại, nếu họ bằng lòng chịu
chết vì đức tin, thì sẽ được Chúa ban lại sự sống siêu nhiên sau này.
- C 40: + Ai đón
tiếp anh em là đón tiếp Thầy…: Ở
đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông thường về ngoại giao là : “Kẻ được
sai đi đồng hóa với người đã sai mình”. Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức Giê-su,
cũng là đón tiếp chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Người. Sự đón tiếp ở đây là
phải sẵn sàng đón nhận Tin Mừng do các tông đồ thừa sai rao giảng.
- C 41: + Ai
đón tiếp một ngôn sứ… một người công chính : Có người nghĩ rằng : Ngôn sứ và công chính đồng nghĩa với
tông đồ, nên ai tiếp đón các tông đồ với danh nghĩa là ngôn sứ và người công
chính, thì sẽ được phần thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú giải hiện
nay lại cho rằng : Thời Giáo hội sơ khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức vụ tông
đồ, còn người công chính thì không phải chức vụ, nhưng là người có lối sống
công bình và ngay chính, được cộng đoàn kính trọng, như ông Giu-se, chồng của
bà Ma-ri-a là người công chính (x. Mt 1,19), ông Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt
danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ… cho bậc công chính
: Đức Giê-su áp dụng nguyên tắc : “Người được sai đi đồng hóa với Đấng
sai mình”, để nói rằng : kẻ đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng sẽ
được phần thưởng giống như phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người công chính
sẽ được, là được sự sống đời đời.
- C 42: + Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này… : Kẻ bé nhỏ đây ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là tông
đồ thừa sai. + Người đó sẽ không mất phần
thưởng đâu : Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước Trời cho những ai
thành tâm cộng tác vào sứ mệnh truyền giáo của các môn đệ, thì cũng sẽ được Chúa
ban thưởng giống như các môn đệi sẽ được hưởng ở đời sau.
II. SỐNG LỜI CHÚA :
1. LỜI CHÚA:
Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy (Mt 10,38).
2. CÂU CHUYỆN:
Một buổi
tối, khi vừa từ Ma-rốc trở về, SÁC ĐỜ PHU-CÔ (Charles de Foucauld) đã hãnh diện
kể cho mọi người thân trong gia đình nghe về những cuộc thám hiểm kỳ thú của
anh ở Phi Châu. Ai cũng thích thú lắng nghe, nhưng người chăm chú theo dõi câu
chuyện hơn cả là cô cháu gái chưa đầy mười tuổi của anh.
Khi anh vừa
dứt lời thì cô bé đã lên tiếng nói:
- Thưa cậu,
cháu thấy cậu đã làm được nhiều việc to lớn. Vậy cậu đã làm được gì cho Chúa Giê-su
chưa?
Câu hỏi ấy
như một luồng điện giựt, khiến anh như bị bất động. Từ bao lâu nay, chưa có lời
nói của ai mà khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: “Cậu đã làm được gì cho Chúa Giê-su chưa?”. Charles de Foucauld nghĩ lại quá
khứ của mình thì chỉ thấy một con số không to tướng. Anh đã phí phạm bao nhiêu thời
giờ tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và tìm kiếm danh vọng phù
phiếm. Mắt anh bỗng mở ra để thấy được sự nghèo nàn về tâm linh của mình. Ngày
hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục. Sau đó anh đã từ bỏ tất cả,
xin vào một dòng khổ tu. Rồi ít lâu sau, anh lại đến ở Na-gia-rét quê hương
Chúa Giê-su để dâng hiến trọn đời còn lại cho Người.
Một ngày nọ,
giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có
tiếng rên của một người Hồi giáo. Nhớ đến gương bác ái của Chúa Giê-su, anh tự
hỏi, anh có thể giam mình cầu nguyện giữa lúc có những người anh em đang rên rỉ
trong đau thương thất vọng được chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ,
trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, nghèo hèn nhất.
Những năm
cuối đời, Charles de Foucauld đã đến sống giữa sa mạc Sa-ha-ra bên Phi châu,
chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người cùng khổ. Và anh đã chia sẻ tới
giọt máu cuối cùng khi vào đầu tháng 12 năm 1916, anh đã bị phát súng oan
nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục đang lúc anh cầu nguyện. Ngày nay, các Tiểu đệ
và Tiểu muội của Chúa Giê-su tiếp tục sống theo lý tưởng của anh. Các anh chị này
tình nguyện đến sống giữa những người nghèo khổ nhất trong xã hội. Tất cả cuộc
sống và sự hiện diện âm thầm của họ là muốn làm điều gì tốt đẹp cho Chúa noi
gương Charles de Foucauld.
2) THEO CHÚA LÀ CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ THẬP GIÁ GIỮA ĐỜI
THƯỜNG:
Có một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con một gia đình quý
tộc ở Ái Nhĩ Lan. Tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cô lại muốn sống đời
thánh hiến cho Chúa. Khi tới tuổi trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai
quý tộc đến dạm hỏi, và được cha mẹ cho phép, cô tìm đến một đan viện có lối
sống nhiệm nhặt khắc khổ để xin được dâng mình cho Chúa. Mẹ bề trên thấy cô vừa
trẻ đẹp, lại vừa là con nhà quyền quý giàu có, nên chưa dám nhận ngay. Bà muốn
thử thách ơn gọi của cô nên đã cố ý trình bày những luật lệ khắt khe của đan
viện về nhiệm vụ cầu nguyện và lao động nhiều giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái
giữ im lặng như suy nghĩ. Một lát sau, bà bề trên hỏi tiếp : “Bây giờ con còn
muốn dâng mình cho Chúa nữa thôi ?”. Cô đáp : “Thưa mẹ, con chỉ còn một thắc
mắc này là : Không biết trong tu viện có nhiều cây thánh giá không ?”. Mẹ bề
trên trả lời : “Con đừng lo. Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có
thánh giá cả”. Bấy giờ cô gái tươi nét mặt và nói : “Thế thì thưa mẹ, con sẵn
sàng xin vào tu viện, vì con chắc sẽ không gặp gì khó khăn cả. Bởi vì theo con
nghĩ : Nếu mọi nơi mọi lúc con đều nhìn thấy thánh giá Chúa, đều thấy Người
đang cùng chịu đau khổ với con, thì con hy vọng có thể chịu đựng được mọi đau
khổ”.
3) KHÔNG ĐÓN
TIẾP THA NHÂN LÀ TỪ CHỐI CHÚA GIÊ-SU:
Tiểu bang Min-ne-so-ta ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với
Ca-na-da, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30
hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ
bị chết máy trên đường tới Ro-ches-ter. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ
ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có
một số nhà dọc theo đường lộ. Chị đã đến gõ cửa lần lượt hơn một chục căn nhà,
nhưng chẳng có ai chịu ra mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy
chị nằm gục bên vệ đường bèn xuống xe đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị đã được
cứu sống, nhưng tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân đã bị hoại tử vì
chịu giá lạnh trong một thời gian quá lâu.
Có điều đáng nói là các căn nhà chị đến gõ cửa đêm hôm ấy,
mọi người đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng gõ cửa. Mọi người đều là các tín
hữu sống tại vùng quê hiền hòa, nhưng không một ai chịu ra mở cửa, vì sợ có thể
bị kẻ cướp trấn lột !
4) CHIA SẺ GIÚP
ĐỠ NGƯỜI NGHÈO LÀ PHỤC VỤ CHÍNH CHÚA GIÊ-SU:
MÁC-TANH THÀNH TUA (Martin de Tour) là một mẫu gương về
đức bác ái cụ thể. Bấy giờ Mác-tanh là
người đầu tiên được Hội Thánh tôn kính như một vị thánh mà không do chịu tử vì
đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc cuộc bách hại đạo sắp chấm dứt. Trước đó chưa
có người nào được các tín hữu tôn kính như một vị thánh giống như ngài. Sở dĩ Mác-tanh
được tôn kính như một vị thánh vì đã sống theo lời Chúa dạy: yêu thương tha
nhân là yêu chính Chúa Giê-su.
Trong lúc Mác-tanh đang học giáo lý dự tòng thì ngài đã ở
trong quân đội. Vào một đêm đông giá rét, khi Mác-tanh đang ngồi trên lưng ngựa
đi tuần tra thì gặp một người ăn xin nghèo khổ đang đi trên đường. Ông ta bị
rét run vì quần áo ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách. Mác-tanh liền thương
cảm cởi chiếc áo choàng bằng dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh và đưa
một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ kia. Sau đó, trong giấc ngủ, Mác-tanh đã
nằm mơ thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác mảnh áo mà ông mới cắt cho
người ăn xin. Mác-tanh nghe Người phán:
“Hỡi Mác-tanh, tuy đang học giáo lý, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.
3. SUY NIỆM:
1) ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÓN TIẾP CHÍNH ĐỨC GIÊ-SU.
- LÒNG HIẾU
KHÁCH : Trong một xóm đạo nọ, vào buổi sáng
khi ánh mặt trời vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều được mở ra đón ánh
nắng ban mai. Rồi từ đầu xóm, một gã hành khất đeo bị và tay chống gậy xuất
hiện. Từ trong nhà nhìn qua cửa sổ, người ta đã phát hiện ra gã. Thế là từng
nhà dọc theo xóm, các cửa ra vào đều được đóng lại, người ta cũng không quên
kéo rèm che các cửa sổ. Bấy giờ gã hành khất đến từng nhà gõ cửa, nhưng không
thấy ai ra mở. Cảm thấy nhục nhã buồn tủi, gã lặng lẽ đi ra khỏi xóm. Khi gã
vừa khuất dạng, các rèm cửa lại được kéo lên, mọi cửa nhà lại được mở toang để đón
nhận nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm đều vui vẻ như vừa thoát
khỏi sự quấy rầy của người khách không mời mà đến.
- CHÚNG TA PHẢI
LÀM GÌ ? : Đức Giê-su dạy chúng ta hãy ân cần
tiếp đón tha nhân. Tùy theo thái độ của chúng ta mà tha nhân sẽ trở thành niềm
vui mang lại hạnh phúc hay trở nên nỗi bất hạnh của chúng ta : các chủ quán ở
Bê-lem xưa đã từ chối đôi vợ chồng nhà quê nghèo khó là ông Giu-se và bà Ma-ri-a,
nhưng họ lại không ngờ mình đã từ chối chính Đấng Thiên Sai trong đêm giáng
sinh (x. Lc 2,7); Hai người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu đã mở
rộng cửa nhà đón tiếp Đức Giê-su và đã nhận được ơn cứu độ (x. Mt 9,10 ; Lc
19,5-10); Gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su và đã được Người dạy cho biết
điều gì cần thiết nhất (x. Lc 10,39-42) ; Hai môn đệ làng Em-mau đã mời vị
khách bộ hành vào tạm trú trong nhà, nên đã nhận ra Chúa Giê-su phục sinh khi
Người bẻ bánh (x. Lc 24,29-31). Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang hiện thân trong
những người đau khổ nghèo đói. Người đang đứng ngoài cửa nhà chúng ta và gõ. Ai
mở cửa đón Người, thì Người sẽ vào trong nhà linh hồn của họ và ngồi dùng bữa
tối thân tình với họ.
2) BIỂU LỘ TÌNH YÊU ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊ-SU THẾ NÀO ?:
- BẰNG CÁCH VÁC
CÂY THẬP GIÁ ĐI KHẮP THẾ GIAN:
Từ lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ BƠ-LÉT-SÍT
(Arthur Blessit) đã khởi đầu một cuộc hành trình đi bộ vòng quanh thế giới.
Trên vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô. Sau 26 năm
vất vả, ông đã lập được một kỷ lục thế giới về đi bộ, khi vượt qua một quãng
đường dài tới hơn 50 ngàn cây số, băng qua nhiều quốc gia. Sau này ông đã thuật
lại chuyến đi ấy như sau : “Tôi đã đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đã từng bị
dã thú như voi, rắn, cá sấu tấn công. Tôi bị bắt giam 21 lần vì bị nghi là làm
gián điệp và có lần suýt bị dân da đỏ hành hình…” Động lực thúc đẩy ông làm
được việc phi thường ấy là tình yêu mến Chúa Giê-su. Ông muốn mang thập giá của
Chúa đến mọi nơi trên thế giới, theo lệnh Người truyền : “Anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,20).
- BẰNG SỰ BỎ
MÌNH VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY MÀ THEO CHÚA:
Đức Giê-su mời mọi người hãy vác thập giá mình hằng ngày
mà theo chân Người (x. Mt 16,24). Đường thập giá là con đường chính Đức Giê-su
đã đi : Là con đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao động vất vả ở
Na-da-rét ; Là con đường rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân độ thế
từ miền Ga-li-lê đến thủ đô Giê-ru-sa-lem ; Là đường lo buồn sầu não trong
vườn Cây Dầu, bị xét xử bất công, bị đánh đòn, bị đội mão gai, phải vác cây thập
giá lên đồi Can-vê, rồi chịu đóng đinh và chết nhục nhã như một tên tội đồ đại
gian ác. Nhưng con đường đó lại chính là đường vào trong vinh quang phục sinh,
như Đức Giê-su đã ba lần tiên báo với môn đệ (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19).
Các tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su mời gọi đi con
đường thập giá của Người. Thập giá mà chúng ta vác đây không phải là cây gỗ khổ
hình, nhưng là những gánh nặng của bổn phận đối với gia đình xã hội và Giáo
hội ; Là đòi hỏi phải từ bỏ của cải
vật chất, quyền hành ; Là những con
người mà chúng ta không ưa, mà vẫn phải sống chung trong một mái nhà, chỗ
làm việc… Đức Giê-su đã nên giống chúng ta khi Người lo buồn sầu não trước Giờ
Tử Nạn, nhưng đã sẵn sàng chấp nhận con đường “qua đau khổ vào trong vinh
quang” theo thánh ý Chúa Cha (Mt 26,39). Cũng vậy, chỉ khi thực sự yêu mến Chúa
Giê-su thì ta mới dám hy sinh quên mình, dấn thân theo Chúa trên con đường thập
giá, và mới dám hiến mạng sống mình vì lòng yêu mến tha nhân.
- BẰNG LỐI SỐNG
YÊU THƯƠNG CẢM THÔNG CHIA SẺ VÀ PHỤC VỤ:
Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ Người phải
dành trọn tình yêu cho Người : “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng
với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng đáng với
Thầy” (Mt 10,37). Từ ngày Đức Giê-su về trời đến nay, có biết bao thừa sai tông
đồ đã dám sống đến cùng tình yêu như Đức Giê-su đòi hỏi ấy. Truyền giáo không những
là rao giảng Lời Chúa cho tha nhân, nhưng còn là “Bỏ mình và vác thập giá mình
hằng ngày mà đi theo Chúa”; Là tin yêu Chúa và thông truyền đức tin và lòng mến
Chúa cho người khác. Ước gì mỗi tín hữu chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết
mọi người, mọi vật, chấp nhận loại bỏ « cái tôi » ích kỷ hẹp hòi, để sống
chan hòa yêu thương, chia sẻ và khiêm tốn phục vụ tha nhân hầu làm chứng cho
Chúa như Lời Người dạy: “Bấy giờ anh em sẽ là
chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và
cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8).
4. THẢO LUẬN:
Theo
kinh Cải Tội Bảy Mối Có Bảy Đức, muốn chừa bỏ một thói hư như: kiêu ngạo, hà
tiện, mê dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ganh ghét, làm biếng… Ta cần tập các nhân
đức đối lập nào và tập như thế nào ?
- LẠY CHÚA
GIÊ-SU. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng đáng : biết cho đi
mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc
mà không cần an nghỉ, biết xả thân mà không cần một phần thưởng nào khác, ngoài
việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).
- LẠY CHÚA. Xin nhận lấy tất cả tâm tư tình cảm và ước
muốn của con, tất cả những gì con có và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy đều do
Chúa đã ban cho con, thì hôm nay con lại xin dâng chúng cho Chúa. Tất cả là của
Chúa. Xin hãy sử dụng theo ý Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa ban cho con lòng yêu
mến Chúa nồng nàn và sau này được Chúa ban ơn cứu độ.
LM ĐAN VINH - HHTM