CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN A
Dcr 9,9-10; Rm 8,9.11-13; Mt 11,25-30
HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG NOI GƯƠNG CHÚA GIÊ-SU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 11,25-30
(25) Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không
cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải
cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
(27) Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con,
trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà
Người Con muốn mặc khải cho. (28) Tất cả những ai đang vất vả mang
gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29)
Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng
hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
(30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su ngợi khen Chúa Cha vì
đã tỏ mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Người hứa sẽ
mặc khải về Chúa Cha và ban sự sống đời đời cho những ai tin vào
Người. Người kêu gọi dân Do thái đang sống dưới ách Luật Mô-sê và
những kẻ đang chịu lầm than vất vả hãy đến để được ơn nâng đỡ.
Người khuyên họ mang lấy ách thập giá của Người và học nhân đức
hiền hậu và khiêm nhường của Người. Nhờ đó, thập giá sẽ nên nhẹ
nhàng và đau khổ sẽ trở thành êm ái cho họ. Tóm lại, Đức Giê-su chính
là Đấng Thiên Sai xuất hiện như là Con người, Con Thiên Chúa, là Vua
và là Đấng mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn.
3. CHÚ THÍCH:
- C 25-26: + Lạy
Cha (Áp-ba): là một tiếng kêu thân thương của đứa con với cha giống như “Bố
ơi!” của người Việt Nam. Đây là một kiểu nói mới lạ độc đáo của
Đức Giê-su, mà trước đó không ai dám thưa với Đức Chúa như vậy. + Con
ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu: Đức Giê-su cảm tạ Chúa Cha vì
đang khi những kẻ tự cho mình là khôn ngoan không chấp nhận Tin mừng
Nước Trời, thì những người nghèo hèn lại vui vẻ đón nhận. + Đó
là điều đẹp ý Cha: Đức Giê-su nhận ra thánh ý của Chúa Cha phù
hợp với lời tuyên sấm của I-sai-a: trong Triều đại của Đấng Thiên Sai, người
nghèo sẽ được nghe rao giảng Tin Mừng (x. Is 61,1-2).
- C 27-28: + Cha
tôi đã giao phó mọi sự cho tôi: Câu này gợi lại lời tuyên sấm
của Đa-ni-en về Đấng Thiên Sai mang danh hiệu Con Người, Ngài được Đấng
Cao Niên là Thiên Chúa ban cho mọi sự (x. Đn 7,13-14). + Không ai biết rõ người Con
trừ Chúa Cha…: Chỉ Chúa Con mới biết rõ về Chúa Cha và mặc
khải cho nhân loại để họ tin theo và được ơn cứu độ là sự sống đời
đời (x. Ga 17,3). + Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề: Những
người bé nhỏ khiêm hạ được Đức Giê-su mặc khải cho là những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề. Đó là dân chúng Do thái sống dưới ách Lề
Luật và phải tuân giữ nhiều tập tục phức tạp mà các kinh sư và người
Pha-ri-sêu đã bày đặt thêm ra (x. Mt 23,4). Đây cũng hiểu là hết những
ai đang chịu nhiều thiệt thòi về vật chất và đau khổ về tâm hồn. +
Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng: Đức Giê-su
thương xót hết mọi kẻ đau khổ và mang vác gánh nặng. Người không hứa
sẽ cất cho họ khỏi gánh nặng, nhưng sẽ ban thêm sức mạnh tinh thần
giúp họ can đảm chịu đựng để vượt qua đau khổ và lập công đền tội
mình.
- C 29-30: + Hãy
mang lấy ách của tôi: Ách hay gánh nặng của Đức Giê-su là đạo lý Tin
Mừng. Đạo lý ấy được tóm lại trong ba điều: Một là phải tin vào
Đức Giê-su và trở nên môn đệ của Người. Hai là phải sống khiêm hạ bé
nhỏ trước tôn nhan Thiên Chúa. Ba là phải cư xử hiền hòa với tha nhân
noi gương Đức Giê-su. + Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhường: Sự hiền hậu của Đức Giê-su luôn đi với khiêm nhường tự
hạ (x. Mt 11,29; Lc 14,11). + Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi
dưỡng: Đức Giê-su hứa sẽ ban bình an nội tâm cho những ai mở
lòng đón nhận tình yêu của Người, và chấp nhận theo con đường “qua đau
khổ vào trong vinh quang”. + Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ
nhàng: Tuy Đức Giê-su đòi hỏi nhiều hơn và triệt để hơn các
ráp-bi Do thái (x Mt 10,37-38), nhưng Người chỉ mời gọi và chờ đợi sự
tự nguyện đáp lại, trái với các đầu mục Do thái thường "bó những
gánh nặng mà chất lên vai người ta, còn chính họ thì không buồn động
ngón tay vào” (Mt 23,4).
4. CÂU HỎI: 1) “Abba” nghĩa là gì ? Lối xưng hô này
cho thấy quan hệ giữa Đức Giê-su với Thiên Chúa ra sao ? 2) Đức Giê-su
ngợi khen Chúa Cha về điều gì ? 3) Lời Đức Giê-su cho biết Người được
Thiên Chúa ban cho mọi sự đã được ngôn sứ nào đề cập đến ? 4) Đức
Giê-su kêu gọi những kẻ đang vất vả mang gánh nặng đến với Người. Họ
là những ai và Người hứa sẽ ban điều gì cho họ ? 5) Ách của Đức
Giê-su nói đây ám chỉ điều gì và được tóm lại như thế nào ? 6) Sự
hiền hậu của Đức Giê-su luôn đi kèm với nhân đức nào ? 7) Đức Giê-su
đã nêu gương khiêm nhường hiền hậu ra sao ? 8) Đức Giê-su hứa ban điều
gì cho những kẻ sống khiêm hạ hiền hòa ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang vất vả mang
gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh
em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng
hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
2. CÂU CHUYỆN:
1) NHẪN NHỊN KẺ THÙ VÌ LÒNG YÊU NƯỚC:
LẠN TƯƠNG NHƯ được phong làm tướng
quốc nước Triệu. LIÊM PHA cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị vua Triệu xếp
đứng bên dưới, nên cảm thấy bực tức và hăm hễ gặp mặt Tương Như là sẽ giết.
Tương Như vì thế cứ phải lánh mặt... Một hôm Tương Như có việc phải ra ngoài,
gặp phải toán lính tiền đạo của Liêm Pha từ xa đi tới, liền sai mấy người đánh
xe tránh vào trong ngõ, đợi cho kiệu của Liêm Pha đi qua rồi mới ra đường. Bọn
xa nhân của Tương Như thấy thế rất căm giận thay cho chủ và họp nhau lại
chất vấn Tương Như rằng:
- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân
thích đến đây để hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên mến mà đi theo.
Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng quan nhất phẩm mà hạng thứ của ngài còn
ở trên ông ta. Liêm Pha dọa, ngài đã không đáp nên tránh mặt ở triều đình. Nay
lại còn tránh cả ở ngoài đường nữa ! Sao ngài lại tỏ ra nhát sợ ông ta quá như
vậy ? Chúng tôi là bề tôi cảm thấy xấu hổ, nên xin phép từ giã ngài, không tiếp
tục theo ngài nữa.
Tương Như liền nói :
- Các ngươi xem tướng quân ta
có hơn vua nước Tần không ?
Bọn xa nhân đáp :
- Thưa không.
Tương Như lại nói :
- Trước cái oai của vua nước Tần,
thiên hạ nào ai dám ra mặt chống, mà Tương Như này dám mắng ông ta ngay giữa
triều đình nước Tần, lại làm nhục cả quần thần của vua Tần
nữa. Tương Như ta dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao ?
Nhưng ta nghĩ sở dĩ nước Tần hiện nay không dám tiến đánh nước Triệu chúng ta
là vì e sợ có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đấu nhau, thề không sống
chung với nhau. Nếu nước Tần nghe tin được, tất sẽ thừa cơ mang quân sang đánh
nước Triệu ta thì sao ? Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì lấy việc
nước là trọng và coi thù riêng là khinh vậy thôi.
Bọn xa nhân liền quỳ mọp bái lạy
Tương Như mà rằng :
- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì
hiểu nổi đại chí của tướng công.
Về phần Liêm Pha, khi nghe thuật lại
lối ứng xử của Tương Như thì cả thẹn mà rằng : ”Ta thật còn kém Lạn Tương Như
xa lắm”. Rồi Liêm Pha còn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng: ”Tôi tính
tình thô bạo, đội ơn tướng quân đã bỏ qua, tự nghĩ lấy làm hổ thẹn quá !”.
Tương Như đến đỡ dậy, và sau đó cả hai kết làm bạn thân thiết sống chết có
nhau.
(Cái
DŨNG của thánh nhân- Nguyễn duy Cần)
2) TÂM HỒN BÌNH AN
NHỜ TIN VÀO CHÚA:
TOM là một tân tòng người da
đen. Anh có lòng tin Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày.
Nhưng anh bạn thân của anh tên là GION thì lại không tin Chúa. Khi gặp
Tom, anh ta thường nói lời khích bác đức tin của Tom và coi Tom là một
kẻ mê tín. Một hôm Tom đang vác một bao khoai mì khá nặng từ cánh
đồng trở về nhà, thì gặp Gion đang ngồi chờ bên vệ đường. Thấy Tom
vác nặng mồ hôi chảy ra nhễ nhãi, Gion liền lên tiếng diễu cợt: “Này
Tom, anh tin Chúa mà sao Chúa lại để anh vất vả quá như thế ?” Tom
không trả lời và tiếp tục bước đi. Được thể, Gion lẽo đẽo theo sau
và tiếp tục nói những lời khích bác về đạo. Đi được một quãng, Tom
đã cố ý buông tay cho bao khoai sau lưng anh rơi xuống đất. Sau đó anh
quay lại nhặt lên và nói với Gion: “Tôi cũng xin hỏi anh: "Làm sao
tôi biết được bao khoai sau lưng mình bị rơi, khi mắt tôi không thấy nó
rơi ?”. Gion liền đáp: “Đương nhiên là anh phải biết nó rơi rồi, vì anh
cảm thấy gánh nặng trên vai anh biến mất ?” Bấy giờ Tom mới giải
thích cho Gion hiểu lý do tại sao mình theo đạo như sau: “Tôi đồng ý với
anh là bao khoai tôi đang vác mà bị rơi xuống thì đương nhiên tôi phải
biết, vì tôi thấy gánh nặng trên vai tôi đột nhiên biến mất và tôi cảm
thấy nhẹ mình. Về đức tin cũng vậy: Trước đây, tôi luôn cảm thấy
buồn rầu lo lắng về những tội lỗi trong quá khứ, và không lúc nào
tâm hồn được bình an. Nhưng từ ngày theo đạo, tôi đã gặp được Chúa
Giê-su. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi được nghe Lời Chúa an ủi và
lời giảng của vị linh mục giúp tôi hiểu thêm về lòng thương xót của
Chúa, về ý nghĩa những đau khổ tôi gặp phải và về giá trị công
việc lao động tôi đang làm… Khi từ nhà thờ ra về, tôi cảm thấy bao nhiêu
gánh nặng lo âu phiền muộn đều biến mất. Hiện nay tôi cảm thấy tâm
hồn mình thật bình an hạnh phúc. Mặc dù vẫn phải làm việc để kiếm
sống, vẫn gặp phải những điều rủi ro tai nạn trái với ý muốn, nhưng
tôi luôn an tâm và sẵn sàng chấp nhận chúng giống như tôi đang vác cây
thập giá của mình mà theo chân Chúa vậy. Chính đức tin đã giúp tôi
nhận ra Chúa Giê-su đang sống trong tôi và tôi cảm thấy rất an tâm vì
có Chúa đồng hành, cùng chia sẻ vui buồn với tôi. Đó chính là lý do
tại sao tôi theo đạo và tôi quyết trung thành theo Chúa đến cùng”.
Tom đã cảm nghiệm được lời Đức
Giê-su hôm nay: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề,
hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng… Và tâm hồn anh em
sẽ được bình an” (Mt 11,28-29).
3) GIÓ BÃO VÀ MẶT TRỜI - AI MẠNH HƠN ? :
Trong tập “Những
ngụ ngôn của Ê-xốp”có một câu chuyện ngụ ngôn về cuộc tranh cãi giữa mặt trời
và gió xem ai mạnh hơn ai.
Gió bão và Mặt trời đang tranh cãi
nhau về sức mạnh vô địch của mình. Lúc đó có một người hành khất mặc một chiếc
áo khoác cũ rách đang đi trên đường. Mặt Trời liền nói : “Chúng ta đã cãi
nhau nhiều rồi mà không có người thắng. Bây giờ mỗi người hãy chứng tỏ sức mạnh
bằng hành động: “Ai lột được chiếc áo khoác của người hành khất đang đi dưới
đường kia thì mới là kẻ mạnh nhất.” Nghe vậy, gió bão liền đồng ý và lập tức ra
tay trước.
Gió bão bắt đầu cho đổ mưa và làm
thành một cơn cuồng phong thổi nước mưa ào ào tạt vào người của gã hành khất
kia. Có điều lạ là gió bão càng thổi mạnh bao nhiêu thì gã hành khất lại càng
ôm chặt chiếc áo khoác sát vào người. Gió bão tức giận tăng thêm cường độ xô gã
hành khất té ngã xuống đường. Nhưng khi thấy chiếc áo khoác sắp bị thổi bay
khỏi người thì gã hành khất liền nằm đè lên chiếc áo, quyết không cho nó rời
khỏi mình. Sau khi làm đủ cách trong một thời gian dài, gió bão bị thấm mệt nên
đành chịu thua, nhường chỗ cho mặt trời ra tay.
Mặt trời liền chiếu xuống đường
những tia nắng ấm áp khiến gã hành khất đang nằm trên đường cảm thấy dễ chịu và
bắt đầu ngồi lên. Hắn ta mới lỏng chiếc áo khoác phanh ngực ra đón ánh nắng mặt
trời. Khi ánh nắng chứa chan làm cho gã cảm thấy nóng bức và mồ hôi bắt đầu
xuất ra khiến gã phải cởi áo khoác ra và chạy tới một gốc đa gần đó trú nóng.
Gã ta trải chiếc áo khoác phơi trên bãi cỏ cho mau khô. Thế là mặt trời đã
chiến thắng vẻ vang mà không cần phải vất vả nhiều như anh gió bão trước đó.
Câu chuyện cho thấy sự hiền hòa dịu
dàng kèm theo sự khôn ngoan sẽ có sức mạnh chinh phục lòng người hơn là thái độ
hung dữ dùng bạo lực để trấn áp tha nhân.
4) SỐ PHẬN CỦA KẺ KIÊU NGẠO CHO MÌNH THÔNG MINH NHẤT THẾ
GIỚI :
"Có một máy bay nhỏ chở hành
khách đang bay ở độ cao trung bình và với vận tốc vừa phải. Hành khách trên máy
bay gồm một vị giáo sĩ, một hướng đạo sinh, một giám đốc sản xuất điện toán.
Đang bay trên bầu trời thì bỗng nhiên động cơ của máy bay không hoạt động nữa.
Gió rít mạnh làm chiếc máy bay rơi nhanh. Ba chiếc dù được đưa ra, nhưng trên
máy bay có tất cả bốn người. Làm sao đây?
Viên phi công khóc và nói: "Tôi
phải có một chiếc dù, vì tôi có vợ và ba đứa con thơ." Nói đoạn, viên phi
công nhanh tay chộp lấy một cái dù và nhảy vội ra khỏi máy bay. Ba người còn
lại nhìn nhau. Ông Giám độc điện toán kêu lên: "Ồ, chắc là tôi phải cần
một cái dù. Tôi là người thông minh nhất thế giới và thế giới đang cần
tôi". Nói chưa dứt lời, ông nhanh tay luồn dây đeo dù vào vai rồi vội nhảy
ra ngoài.
Vị giáo sĩ quay sang nói với người
hướng đạo sinh: "Này con, con hãy lấy chiếc dù cuối cùng và nhảy ra đi.
Cha đã già rồi, cha sẵn sàng đi gặp Chúa. Con còn trẻ, tương lai huy hoàng đang
chờ đợi con. Con không thể chết được". Nhưng người hướng đạo sinh mỉm cười
nói: "Cha già đáng kính và dễ thương của con ơi. Cha hãy yên tâm. Vẫn còn
đủ dù hai chiếc dù cho cha con mình. Ông giám đốc điện toán cho mình là người
thông minh nhất thế giới vừa nhảy ra khỏi máy bay với chiếc ba lô của con mà
ông ta tưởng đó là chiếc dù".
Hãy tự khiêm tự hạ trước mặt Thiên
Chúa để chính Ngài sẽ hành động trên chúng ta. Hạnh phúc cho những ai biết nép
mình bên Chúa như đứa con thơ trong tay mẹ hiền của mình.
5) GƯƠNG HIỀN HẬU KHIÊM NHƯỜNG CỦA GIÁO HOÀNG GIO-AN
23 :
Khi được phong lên làm Tổng giám
mục, thì đức cha Roncalli đang là Khâm sứ Toà Thánh kiêm Đại diện Tông tòa quản
trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Công việc của ngài rất khó khăn,
vì phải coi sóc một vùng đất rộng lớn, đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ
về mặt tôn giáo : Giữa đạo Công giáo với các đạo Tin lành, Chính thống,
Hồi giáo ; Giữa các linh mục triều
với các tu sĩ. Trong lúc thi hành công tác mục vụ, đức Tổng giám mục Roncalli
đã nhận được một bức thư nặng lời chê trách ngài về mọi mặt, do một linh mục
bất mãn với ngài viết. Khi đọc xong, đức cha Roncalli không nói một
lời, lòng vẫn tha thiết yêu thương vị linh mục ấy.
Sau khi được thăng
chức sứ thần Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và
cuối cùng đắc cử lên làm Giáo hoàng với danh hiệu Gio-an 23 vào năm 1958, thì linh
mục viết thư chỉ trích ngài năm xưa vẫn còn sống. Ông cùng với đoàn
giáo dân sang Rôma xin được vào yết kiến Đức Giáo hoàng. Linh mục ấy đã thuật
lại cuộc tiếp kiến riêng với Đức Giáo hoàng như sau:
“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu
óc tôi cứ nghĩ tới bức thư biểu lộ sự bất mãn năm xưa mà lòng vô cùng hối hận.
Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trôi qua rồi, nên giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha
sẽ không còn nhớ gì... Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh
Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư ấy. Đang khi tôi
lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: ”Con đừng hoảng
sợ, cha không bao giờ giận ghét gì con đâu mà trái lại còn phải cám ơn con nữa.
Vì cha cũng chỉ là người, cũng có những yếu đuối sai lỗi, nên khi nhận được thư
của con, cha đã trân trọng để vào trong cuốn Thánh kinh đọc hằng ngày, để mỗi
tối cha đều nhìn vào bức thư đó mà xét mình, hầu dễ dàng tu sửa những khuyết
điểm sai lỗi tồn tại, và quyết tâm xa tránh những lầm lỡ trong tương lai. Mỗi
lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
3. SUY NIỆM:
1) THẾ NÀO LÀ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG ?:
- Hiền hậu hay Hiền hậu là thái độ
của một người tốt lành, giàu lòng từ bi nhân ái, có lòng thương xót và thích
làm điều tốt cho kẻ khác. Hiền hậu theo Kinh Thánh còn có nghĩa là thái độ hiền
dịu, không cứng cỏi… Như vậy sự hiền hậu vừa có trong lòng lại vừa phát
xuất ra bên ngoài: Trong lòng thì từ bi, khoan dung, độ lượng, cảm thông, còn
bên ngoài thì nhẹ nhàng, từ tốn nhỏ nhẹ, không thô bạo, không gây thù chuốc oán
với ai...
- Trong đời sống thường ngày,
những người có quyền thường tự cao tự đại, không muốn ai làm trái ý mình, lại
thường nóng tính biểu lộ qua nét mặt cau có, hay la mắng người dưới làm trái ý
mình, có khi còn “giận cá chém thớt” nữa.
- Khiêm nhường là thái độ nhún
nhường không thích khoe khoang thành tích, sẵn sàng hạ mình một
chút. Căn bản của khiêm nhường là tôn trọng sự thật về mình: nhận
thức đúng mình là người xấu tốt như thế nào để không muốn mình nổi trội hơn
người khác. Giả như người khác có coi thường mình thì cũng không tức giận và không
để bụng trả thù. Nhờ “biết mình biết người” như vậy nên người khiêm nhường sẽ
luôn thành công trong mọi việc, sẽ tránh được buồn phiền chán nản khi sự thể
xảy ra không như ý của mình. Người khiêm nhường dễ gây được thiện cảm với người
khác và nhận được sự hợp tác của nhiều người.
2) HÃY HỌC VỚI TÔI SỰ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG
TRONG LÒNG:
- Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy
học nơi Người về “lòng hiền hậu và khiêm nhường”, để tâm hồn chúng ta
có sự bình an thư thái. Cần loại bỏ thái độ tự mãn về sự khôn ngoan
thông thái của mình, để tập suy nghĩ đơn sơ trung thực như trẻ thơ. Bấy
giờ chúng ta sẽ được Chúa mặc khải những mầu nhiệm của Thiên Chúa (x.
Mt 11,25-27). Thánh Au-gút-ti-nô cũng nói: “Ở đâu có khiêm nhường, ở đó
có bác ái”.
- Văn hào Nga TÔN-TOI (Tolstoi) đã
kể một câu chuyện ngụ ngôn cho thấy sự hiền lành là nguyên nhân của
niềm vui và hạnh phúc như sau: Một hôm sói hỏi sóc nâu: “Tại sao họ
sóc nhà mi luôn vui vẻ nhảy nhót, còn bọn sói chúng ta lại luôn ủ
rũ buồn rầu vậy?” Sóc liền trả lời rằng: “Ông sói buồn rầu vì trong
lòng ông chứa đầy sự độc ác. Chính sự độc ác ấy đã bóp nghẹt trái
tim ông, không cho ông được an bình hạnh phúc. Còn sở dĩ lũ sóc chúng tôi
luôn vui vẻ vì chúng tôi hiền lành, không làm hại ai cả”.
- Một câu chuyện khác về một con
nhái bén kiêu căng: Ngày nọ một con nhái bén kiêu căng lên tiếng thách đấu
với một con bò mộng. Nhái ta cố uống nhiều nước để phình bụng ra to hơn
con bò. Nhưng to đâu không thấy, chỉ thấy con nhái bén kiêu căng kia sau
một hồi cố gắng đã bị nổ bụng và chết thảm.
Câu chuyện nhái bén này dạy chúng
ta bài học như sau: “Đừng trèo cao để khỏi bị té đau”, đừng “xưng
hùng xưng bá” khi không có thực tài như người ta thường nói: “Có tài mà
cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Đàng khác dù có thực tài đi nữa
nhưng phải ý thức về giới hạn của mình như người xưa dạy: “Cao nhân tất hữu
cao nhân trị” (Một người tài giỏi chắc cũng sẽ có người tài giỏi hơn đánh bại
mình).
3) ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG:
Trong cuộc sống, mỗi tín hữu chúng
ta quyết tâm ứng xử hiền hậu khiêm nhường cụ thể như sau:
a- Khiêm nhường bằng cách nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân: Người khiêm nhường sẽ biết kềm chế cơn giận khi bị kẻ khác
khinh thường và đối xử không tốt với mình, noi gương Đức Giê-su đã nhẫn nhịn dân
làng Sa-ma-ri không tiếp đón Thầy trò vào ở trọ trong làng của họ. Bấy giờ hai
môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an tức giận yêu cầu Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy có
muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không? ” Nhưng Người
quay lại quở mắng các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào.
Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng”. Rồi thầy trò đi sang làng khác (x.
Lc 9,53-56).
b- Khiêm nhường để không khoa trương công đức để tìm
tiếng khen (x. Mt 6,1-4):
Người khiêm nhường sẽ tránh thái độ “thùng rỗng kêu to”; “Làm láo báo cáo hay”
khi tìm cách che đậy cái xấu và phóng đại điều tốt để được người đời ca tụng.
c- Khiêm nhường đòi phải tha thứ vô điều kiện: Đức Giê-su đã dạy: “Thầy bảo anh
em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em
mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt
trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống
trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x. Mt 5,43-45). Trong kinh Lạy
Cha Người cũng dạy cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng
tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12).
d- Khiêm nhường để sẵn sàng làm hòa với tha nhân: “Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ trước
bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để
của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại
dâng lễ của mình” (Mt 5,23-24).
e- Khiêm nhường thể hiện qua thái độ phục vụ hơn là được
phục vụ (x. Mt 20,28):
Đức Giê-su đã nêu gương khiêm hạ bằng việc rửa chân môn đệ trước khi dạy các ông
bài học khiêm nhường (x. Ga 13,14).
g- Khiêm nhường để yêu kẻ thù và làm ơn cho những kẻ
bách hại mình (x. Mt 5,39-42): Trên thập giá, Đức Giê-su đã nêu gương hiền hậu và khiêm
nhường khi im lặng chịu đựng sự sỉ nhục và xin Chúa Cha tha thứ cho những
kẻ hành hạ mình (x. Lc 23,34)…
4) PHÚC THAY AI XÂY DỰNG HÒA BÌNH:
Trong bài giảng “Tám mối phúc thật”
, Đức Giê-su đã khẳng định: Phúc thay ai Hiền hậu, vì họ sẽ được Đất Hứa làm
gia nghiệp”. ”Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa” (Mt 5,4.10). Sự Hiền hậu sẽ làm cho chúng ta được vào Nước
Trời của Đức Giê-su và nếu biết xây dựng hòa bình trong môi trường sống và làm
việc của mình, chúng ta sẽ xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự hiền lành nơi Đức
Giê-su không phải là thái độ nhu nhược thụ động, không đồng nghĩa với bất nhất ba phải… nhưng luôn ăn ở công
minh chính trực, từ bi nhân ái, thể hiện qua lối ứng xử như sau:
a- Tránh xét đoán ý trái và không kết án bất công cho kẻ
khác: Luôn tỏ lòng
nhân từ với các tội nhân như Đức Giê-su đã phán với người phụ nữ phạm tội
ngoại tình: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ
nay đừng phạm tội nữa !” (Ga 8,11b).
b- Hiền hậu nhưng cương quyết: Không thỏa hiệp với cái xấu như Đức
Giê-su đã trách Phê-rô khi ông can trách Người đừng chấp nhận con đường “qua
đau khổ vào vinh quang” theo ý Chúa Cha muốn như sau: “Xa-tan, lui lại đàng sau
Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên
Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Người đã hạch kẻ đã vả mặt Người
rằng: “Nếu tôi nói sai, hãy chứng minh xem sai chỗ nào. Còn nếu tôi nói
phải, sao anh lại đánh tôi ?” (Ga 18,22-24).
c- Hiền hậu nhưng không thỏa hiệp với bọn đạo đức
giả: Đức Giê-su đã
trách mắng bọn đầu mục Do thái: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người
Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào ! Các
ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để cho họ vào” …
“ Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia ! Các ngươi trốn đâu cho khỏi hình phạt hỏa ngục
?” (Mt 23,13.33).
d- Hiền hậu nhưng sẵn sàng dùng biện pháp mạnh khi cần: Đức Giê-su đã
bện dây thừng làm roi để xua đuổi tất cả bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ, lật đổ
bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Rồi Người bảo
họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các
ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp“ (Mt 21,12-13).
TÓM LẠI: Tất cả những điều tốt đẹp
Đức Giê-su làm và dạy nói trên đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong KINH HÒA
BÌNH. Nếu mỗi tín hữu chúng ta biết năng đọc và áp dụng các nguyên tắc ứng xử
này thì chúng ta sẽ nên hiền hậu và khiêm nhường trong lòng giống như Đức
Giê-su và sẽ tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
4. THẢO LUẬN:
Có người cho rằng: không thể áp dụng lời Đức
Giê-su dạy: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39), để tránh cho kẻ ác
“được đàng chân, lân đàng đầu”. Bạn có đồng ý với quan điểm ấy không
? Tại sao ? Bạn cần làm gì cụ thể để ngày một trở nên hiền lành và
khiêm nhường noi gương Đức Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA. Chúng con đã được
Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã phú ban cho chúng con
có tình yêu thương giống như Thiên Chúa là Tình Thương. Xin cho chúng con luôn
tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc thật sự đời con. Xin cho con biết ăn
ở hiền hậu và khiêm nhường qua việc phục vụ Chúa, hiện thân nơi những
người nghèo khổ bệnh tật đang sống gần bên chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM