CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN A
Is 45,1.4-6; 1 Tx 1,1-5b; Mt 22,15-21
CHU TOÀN HAI NGHĨA VỤ ĐẠO ĐỜI
1. LỜI CHÚA: Mt
22,15-21
(15) Bấy giờ những người Pha-ri-sêu
đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mắc bẫy. (16) Họ sai
các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su
rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy
đường lối Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà
đánh giá người ta. (17) Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?” (18)
Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử
tôi, hỡi những kẻ giả hình ! (19) Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi !” Họ liền
đưa cho Người một đồng bạc. (20) Và Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của
ai đây ?” (21) Họ đáp: “Của Xê-da”. Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xê-da,
trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
2. Ý CHÍNH:
Một số người Pha-ri-sêu liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm
cách gài bẫy Đức Giê-su, để có cớ tố cáo chống lại Người. Nhưng cuối cùng Người
không bị mắc bẫy của họ, mà còn giúp họ ý thức bổn phận sống “tốt đạo đẹp đời”,
vừa tôn trọng thế quyền lại vừa tôn trọng thần quyền bằng nguyên tắc như sau:
“Của Xê-da trả về Xê-da, Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15: + Bấy
giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su
phải lỡ lời mắc bẫy: Những người Pha-ri-sêu được dân Do
Thái đánh giá là có lòng ái quốc, chống lại đế quốc Rô-ma bấy giờ đang cai trị
nước Do Thái. Các người Pha-ri-sêu rất tôn trọng Thiên Chúa, tuân giữ tỉ mỉ
từng điều khoản trong bộ luật Mô-sê, nhất là luật về ngày hưu lễ (Sa-bát) và
việc thanh tẩy, nhưng họ lại không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a).
Vì Đức Giê-su nhiều lần quở trách thói giả đạo đức và kiêu căng, nên họ luôn
chống đối Người. Ở đây họ bàn mưu tính kế để tố cáo Người về lời nói.
- C 16: + Những người phe Hê-rô-đê: Đây là một đảng phái chính trị, là tay chân ủng hộ vua
Hê-rô-đê và thân với chính quyền Rô-ma. Họ theo văn hóa Hy Lạp và không quan
tâm đến luật Mô-sê. Có thể nói phe này đối lập với nhóm Pha-ri-sêu cả về chính
trị lẫn tôn giáo. Người Pha-ri-sêu cùng với những người phe Hê-rô-đê: Hai nhóm
người đối nghịch nhau giờ đây lại liên kết với nhau để đối phó với Đức Giê-su
là kẻ thù chung của họ, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Họ rình rập và sai một số
người giả bộ làm người công chính, đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ
lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn” (Lc 20,20). +
Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật: Đây là một lời khen
giả dối với mục đích tránh bị Đức Giê-su nghi ngờ về ý đồ đen tối của họ. Họ
chào hỏi Người như là một ông Thầy (Rab-bi), khen Người là người trung thành với
lề luật Thiên Chúa và không bị người đời chi phối. Đây là hai đặc tính tiêu
biểu của người công chính được Thánh Kinh nhắc đến (x. Cv 10,34 ; Gc 2,1-9 ; Cl
3,25).
- C 17: + Xin Thầy cho ý kiến: Họ xin Đức Giê-su cho ý kiến để giải quyết một vấn đề
phức tạp mà nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Hê-rô-đê bất đồng ý kiến với nhau. +
Xê-da: Tước hiệu ám chỉ hoàng đế đang trị vì đế quốc Rô-ma. Trong Tân
Ước, tước hiệu Xê-da ám chỉ 3 vị hoàng đế Rô-ma: Một là AU-GÚT-TÔ: cai trị từ
năm 29 trước Công nguyên đến năm 14 sau Công Nguyên, vào thời điểm Đức Giê-su
giáng sinh tại Bê-lem (x. Lc 2,1). Hai là TI-BÊ-RI-Ô: Cai trị từ năm 14 đến năm
37 sau CN, trong thời gian Đức Giê-su giảng đạo công khai. Tin Mừng nhắc đến
tước hiệu này 3 lần: Khi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Lc 3,1), khi Người bị gài
bẫy về việc nộp thuế (x. Mt 22,17) và khi Người bị dân Do Thái đòi kết án tử
hình thập giá (x. Ga 19,12). Ba là NÊ-RÔNG: cai trị từ năm 54 đến năm 68 sau
CN. Sách Công Vụ dùng tước hiệu này để chỉ hoàng đế Nê-rông, khi ông Phao-lô
gặp khó khăn với người Do Thái tại Thê-xa-lô-ni-ca (x. Cv 17,7), và khi ông tự
biện hộ rồi kháng án lên hoàng đế Xê-da (x. Cv 25,10 ; 28,19). + Nộp
thuế: Người Do Thái hằng năm đều phải nộp hai thứ thuế: Một là thuế tôn giáo hay thuế Đền Thờ (x. Mt
17,24). Hai là thuế nhà nước: Ngoài nhiều loại thuế khác, mỗi năm người Do Thái
trong hạn tuổi từ 14 đến 65, đều phải nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma. Người
Do Thái coi việc nộp thuế này là một sự ô nhục, biểu lộ thái độ thần phục hoàng
đế Rô-ma. Vì thế Nhóm Quá khích có tinh thần ái quốc đã cấm thành viên của mình
đóng thuế cho ngoại bang. + Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không
?: Câu này có nghĩa là người Do Thái theo lương tâm có được nộp thuế
cho hoàng đế Xê-da vừa là dân ngoại, vừa là vua của đế quốc đang thống trị dân
Do Thái hay không ? Như vậy vấn đề nộp thuế ở đây được đặt trên bình diện chính
trị. Đây chính là một cái bẫy mà theo thâm ý của họ thì Đức Giê-su trả lời đằng
nào cũng không ổn: Nếu bảo phải nộp thuế, thì nhóm Pha-ri-sêu sẽ tố cáo Người
là kẻ phản quốc và chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) mà dân Do
Thái đang mong đến, để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của dân ngoại.
Ngược lại, nếu Người bảo không phải nộp thuế, thì phái Hê-rô-đê sẽ dựa vào đó
tố cáo với tổng trấn Rô-ma rằng Đức Giê-su là kẻ phản động, đang âm mưu chống
lại chính quyền Rô-ma, cụ thể là xúi giục dân không nộp thuế, để tổng trấn ra
lệnh bắt bớ giết hại Người.
- C 18: + Đức Giê-su biết họ có ác ý: Những
kẻ chất vấn Đức Giê-su đã tỏ ra giả dối trong hai chuyện: Một là họ làm ra vẻ
băn khoăn về một vấn đề lương tâm, đang khi thâm ý của họ là muốn gài bẫy làm
hại Đức Giê-su. Hai là trong cuộc sống đời thường, họ vẫn phải sử dụng đồng
tiền của Xê-da để giao dịch mua bán, tức là họ đã mặc nhiên chấp nhận quyền cai
trị của hoàng đế Rô-ma rồi. Thế nhưng họ vẫn làm ra vẻ như không chấp nhận
quyền ấy. + Tại sao các người lại thử tôi ?: Qua câu này, Đức Giê-su cho
thấy người đã biết rõ ý đồ đen tối của bọn người này là muốn giăng bẫy để làm
hại Người. + Hỡi những kẻ giả hình: Giả hình là không trung thực, là giả
bộ, thái độ và lời nói bên ngoài trái ý với ý nghĩ trong thâm tâm. Họ đặt câu
hỏi không phải vì muốn biết điều đúng để theo, nhưng là muốn đưa Người vào thế
“tiến thoái lưỡng nan”, để hoặc tố cáo làm mất uy tín của Người trước dân
chúng, hoặc tố cáo Người với nhà cầm quyền Rô-ma để mượn tay họ giết hại Người.
- C 19: + Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi:
Đức Giê-su đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế là tiền của Rô-ma đang lưu hành
ngoài xã hội, trên đó có khắc hình và danh hiệu của Hoàng đế Xê-da. Mười điều
răn trong Luật Mô-sê có khoản như sau: “Người không được tạc tượng, vẽ hình bất
cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới
mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Trên danh hiệu hoàng đế Rô-ma có chữ thần linh,
vì hoàng đế tự coi mình là thần, nên người Do Thái đạo đức không muốn sử dụng
đồng tiền này. Dân Do Thái trước khi nộp thuế Đền Thờ hay ủng hộ việc trùng tu
Đền Thờ, phải đổi từ tiền Rô-ma dùng ngoài xã hội sang loại tiền riêng dùng
trong Đền Thờ tại những bàn đổi tiền (x. Mt 21, 12). + Họ đưa cho Người một đồng bạc:
Người Do Thái có lòng yêu nước chân chính sẽ không mang theo đồng tiền của đế
quốc Rô-ma. Ở đây khi lấy từ túi áo một đồng tiền để đưa cho Đức Giê-su, tức là
những người này đã mặc nhiên thừa nhận quyền cai trị của hoàng đế Xêda. – C
20-21: Hình và danh hiệu này là của ai
đây ?: Đức Giê-su đã quá biết hình và danh hiệu khắc trên đồng tiền là
của Xê-da. Nhưng Người muốn chính miệng họ phải nói ra điều này, trước khi
Người trả lời thắc mắc của họ. + Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da:
Một khi họ nhận quyền của hoàng đế trên dân tộc mình, thì việc nộp thuế cho
hoàng đế Rô-ma cũng là lẽ đương nhiên (x. Rm 13,5-7). Vì mọi quyền hành đều
xuất phát từ Thiên Chúa, như lời Đức Giê-su nói với tổng trấn Phi-la-tô: “Ngài
không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19,11), hoặc
như thánh Phao-lô viết: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có
quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do
Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1-4). Thánh Phê-rô cũng dạy tương tự (x. 1 Pr
2,13-14). Nói cách khác, khi người ta tùng phục quyền bính chính đáng của thế
quyền, thì cũng là làm theo thánh ý của Thiên Chúa. + Của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa: Nhưng khi thế quyền chống lại Thiên Chúa, thì các tín hữu phải
chọn đứng về Thiên Chúa, vì Người mới là nguồn gốc mọi quyền bính của loài
người, như Tông đồ Phê-rô đã trả lời trước Thượng Hội Đồng Do Thái, khi bị họ
ngăn cấm rao giảng danh Đức Giê-su: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
người phàm” (Cv 5,29). Tóm lại, qua câu trên, Đức Giê-su muốn dạy rằng: Nộp
thuế thì cứ nộp, vì dù muốn dù không thì ta cũng đang sống dưới quyền cai trị
của một đế quốc, thể hiện qua việc phải sử dụng đồng tiền của đế quốc. Nhưng
chỉ được tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, và ngoài Người ra không còn thần linh
nào khác. Như vậy theo lời Đức Giê-su, người ta phải chu toàn cả hai bổn phận:
Vừa tôn trọng quyền lợi của hoàng đế, lại vừa tôn trọng quyền lợi của Thiên
Chúa.
4. CÂU HỎI: 1)
Tại sao người Pha-ri-sêu thug ghét Đức Giê-su ? 2) Hai nhóm Pha-ri-sêu và
Hê-rô-đê đã làm gì để chống đối Đức Giê-su ? 3) Trong Tân Ước, Xê-da là tước
hiệu ám chỉ ba vị hòang đế nào của đế quốc Rô-ma ? 4) Người Do thái hằng năm
phải nộp những lọai thuế nào ? Ho thường bất đồng ý kiến với nhau về việc phải
nộp các lọai thuế nào ? Tại sao ? 5) Những người Pha-ri-sêu va phái Hê-rô-đê đã
gài bẫy Đức Giê-su thế nào về việc nộp thuê ? 6) Tại sao Đức Giê-su lại gọi bọn
họ là những kẻ giả hình ? 7) Hãy cho biết hai lọai đồng tiền thời Đức Giê-su
khác nhau thế nào ? Đức Giê-su đã làm gì để hóa giải cái bẫy của những kẻ ác ý
kia ? 8) Qua câu “của Xê-da trả cho Xê-da, Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”,
Đức Giê-su đã phân định thế nào về bổn phận của các tín hữu đối với thế quyền
và với Thiên Chúa ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỰ LỰA CHỌN
CỦA THÁNH TỬ ĐẠO THO-MÁT MO-RƠ (THOMAS MORE)
Vua HĂNG-RI THỨ TÁM (Henry VIII) Nước Anh, muốn Tòa thánh
hủy bỏ cuộc hôn nhân chính thức trước đó để tái hôn với cô En-nơ Bô-lơn (Anna
Bolen). Nhưng vì không hội đủ lý do tiêu hôn, nên Tòa Thánh đã từ chối giải
quyết yêu cầu của vua. Nghe vậy, HĂNG-RI tức giận và tuyên bố thành lập một
giáo hội Anh quốc ly khai khỏi Công Giáo. Sau đó, ông tự huỷ bỏ cuộc hôn nhân
trước để tái kết hôn theo ý ông muốn. Ông tự phong là giáo chủ của Anh giáo, và
ra lệnh cho các chức sắc tôn giáo như hồng Y, Giám Mục và các Quan chức trong
triều, các vị tướng lãnh, quý tộc và các thành viên trong nghị viện Anh phải ký
tên vào một văn bản công nhận quyền tái hôn của ông, và gia nhập Anh giáo ly
khai. Nhiều người phản đối, nhưng vì sợ bị chém đầu, nên đành ký tên vào bản
văn ấy. Bấy giờ Tho-mát Mo-rơ đang là một quan chức cao cấp của nhà vua. Ông đã
bị giằng co giữa hai bổn phận: một là của người tín hữu phải trung thành với
Thiên Chúa và như thế sẽ bị kết tội làm phản và bị tử hình. Hai là bổn phận của
một bề tôi phải trung thành với nhà vua và được hứa sẽ cho làm Tổng Giám Mục để
hưởng nhiều bổng lộc và vinh hoa phú quý. Nhưng Thô-mát Mo-rơ đã chọn trung
thành với Thiên Chúa. Sau đó Ngài đã bị bắt giam trong một nhà ngục ở Luân Đôn.
Trong phiên tòa xét xử Ngài, sau khi nghe vị quan tòa tuyên án tử hình về tội
phản nghịch dám chống lại nhà vua, Thô-mát Mo-rơ đã phát biểu như sau: “Tôi
biết lý do tại sao tôi bị kết án, chỉ vì tôi đã không ủng hộ cuộc hôn nhân bất
chính của nhà vua. Tôi chấp nhận từ bỏ cuộc sống đời tạm này, để bước vào một
cuộc sống mới trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin đón nhận linh
hồn con: Đây vừa là một lời cầu xin mà cũng là niềm hy vọng của tôi. Tôi xin
Chúa sớm nhận lời tôi cầu xin cho nhà vua mau sám hối trở về với Chúa”. Sau đó
ngài đã anh dũng chết vì đạo vào ngày 06 tháng 07 năm 1525. Cuộc đời của Thánh
Thô-mát Mo-rơ đã chấm dứt trong sự thánh thiện và vinh quang như thế.
Còn bạn, khi gặp hoàn cảnh phải chọn một trong hai: Thiên
Chúa hay tiền bạc, địa vị con Thiên Chúa hay chức quyền trần gian. Trong trường
hợp đó, bạn sẽ chọn theo điều nào: Chọn theo Chúa và chấp nhận bị coi là kẻ khờ
dại và bị loại trừ, hay chọn theo những kẻ gian ác tham nhũng để được an thân
và được thăng quan tiến chức ?
2) ĐỒNG BẠC
RÔ-MA THỜI ĐỨC GIÊ-SU:
Khi đến viện bảo tàng Men-sét-tơ (Manchester) bên nước
Anh, và đi thăm khu vực trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rô-ma,
bạn có thể tìm thấy loại đồng tiền De-na-ri-ut (Denarius) bằng bạc, trên đó có
đúc niên biểu và hình của hoàng đế Rô-ma. Quan tiền này được lưu hành trong
nước Do Thái vào thời Đức Giê-su. Trong lúc cầm quan tiền trên tay và lật qua
lật lại, bạn có thể liên tưởng đến dụ ngôn người Sa-ma-ri ngoại đạo, đã đưa cho
chủ quán hai quan tiền như thế, để nhờ chăm sóc một người Do Thái bị bọn cướp
trấn lột và đánh trọng thương (x. Lc 10,35). Bạn cũng có thể liên tưởng đến dụ
ngôn các thợ làm vườn nho trong Tin Mừng Mát-thêu. Ông chủ vườn đã trả lương
cho mỗi người thợ làm vườn một quan tiền như đồng bạc đó (x. Mt 20,9-10). Nhất
là, bạn có thể liên tưởng đến quan tiền mà Đức Giê-su đã dùng để trả lời cho
hai nhóm Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê liên minh với nhau để gài bẫy Người. Trên quan
tiền này, bạn chăm chú nhìn vào khuôn mặt của một vị Xê-da là TI-BE-RI-UT
(Cesar Tiberius) đang cai trị đế quốc Rô-ma vào thời Đức Giê-su đang đi rao
giảng Tin Mừng (x. Lc 3,1). Mặt sau của đồng bạc là hình bà LI-VI-A, mẹ của vua
TI-BE-RI-UT. Bà đang ngồi, cầm một cành cây ô-li-va trên tay, tượng trưng cho
hòa bình.
Cầm đồng tiền ấy trên tay, người ta có thể liên tưởng đến
câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất; đến dụ ngôn ông chủ vườn nho đã
trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất là, người ta có thể liên tưởng đến
đồng tiền Chúa Giê-su đã dùng để trả lời cho cả 2 nhóm là Pha-ri-sêu và
Hê-rô-đê trong Tin Mừng hôm nay.
3) MỌI SỰ ĐỀU LÀ CỦA CHÚA:
"Xưa ở đất Út có một người tên
là Gióp. Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa
điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn
súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa
cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương Đông...
Một ngày kia, Satan đến gặp Thiên
Chúa. Thiên Chúa khen ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên
Chúa và xa lánh điều ác.
Satan cho rằng ông Gióp tốt với Chúa
như vậy chẳng qua là vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa thử giơ
tay rút lại những tài sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ Chúa nữa
không? Chắc chắn là Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!
Thiên Chúa chấp thuận để cho Sa-tan
thử thách lòng trung tín của Gióp đối với Người.
Vậy là một ngày kia, khi các con
trai con gái của Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có mấy người liên tiếp
mang tin dữ đến cho ông Gióp như sau:
- Trong lúc bò của ông đang cày
ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại còn
dùng gươm giết chết các đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho ông
hay. Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:
- Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng
xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát
nạn chạy về báo tin ông hay. Người nầy còn đang nói thì người khác chạy về
thưa:
- Người Can-đê chia thành ba toán ập
vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi
thoát nạn chạy về báo tin ông hay. Người ấy còn đang nói thì một người khác
chạy về thưa:
- Con trai con gái ông đang ăn uống
tại nhà người anh cả thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào
bốn góc nhà; nhà sập xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình tôi thoát
nạn chạy về báo tin ông hay.
Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo
mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần truồng
sinh từ lòng mẹ, tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức
Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (Gióp 1, 6-22).
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta
biết rằng: mọi sự chúng ta có đều là của Chúa ban cho, nếu mai đây Chúa có đòi
lại, thì chúng ta hãy phó thác để Chúa được toàn quyền định liệu.
4) KHÔN NGOAN PHÒNG TRÁNH CẠM BẪY CỦA THẾ GIAN
Đức TGM Ngô Quang Kiệt, ngày 20. 09.
2008, đã phát biểu tại UBND TP. Hà nội, trước một cử tọa khá đông người như
sau: " Chúng tôi đi ra nước ngoài rất nhiều. Chúng tôi rất là nhục nhã khi
cầm cái hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị soi xét. Chúng tôi buồn lắm chứ. Chúng
tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ
chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ
cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm
và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta
mạnh..." Vậy mà hôm sau báo đài Việt Nam đã loan tin ầm lên, khi họ chỉ
trích ra một phần nhỏ trong câu nói dài của ngài: "Chúng tôi rất là nhục
nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam..."
Thói đời là thế, khi người ta muốn
hạ bệ ai, thì họ sẽ không tôn trọng sự thật, chẳng sợ làm trái lương tâm... Về
phần các tín hữu, cần phải cảnh giác và khôn ngoan đề phòng trước những thông
tin chống phá Hội Thánh. Hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha luôn khôn ngoan để
lèo lái con thuyền Hội Thánh vượt qua sóng gió. Hãy cầu xin cho mỗi tín hữu chúng
ta phòng tránh các tội lỗi và gương xấu, làm cớ cho ma quỷ và thế gian chống
đối Hội Thánh.
3. SUY NIỆM:
Đến chất vấn Đức Giê-su là những
người thuộc hai nhóm đối lập nhau về chính trị là nhóm Pha-ri-sêu và nhóm
Hê-rô-đê. Để đối phó với Đức Giê-su là kẻ thù chung, hai nhóm này tạm thời liên
minh đặt ra một cái bẫy để từ đó sẽ tố cáo giết hại Người:
1) CÁI BẪY ĐƯỢC GIƯƠNG RA:
“Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay
không ?”, một câu hỏi thật sắc bén do họ đặt ra, để đưa Đức Giê-su vào thế bí,
mà theo họ thì trả lời đàng nào cũng không ổn: Nếu Đức Giê-su bảo phải nộp thuế
cho đế quốc, thì nhóm Pha-ri-sêu vốn có lòng ái quốc sẽ đi rao rằng Người là kẻ
bán nước, là tay sai của ngoại bang để đàn áp bóc lột đồng bào, hầu dân Do Thái
không tin Người là Đấng Mê-si-a, mà họ đang tha thiết mong chờ. Nhưng nếu Đức
Giê-su bảo rằng không được nộp thuế cho Xê-da, thì phái Hê-rô-đê vốn thân chính
quyền, sẽ thừa cơ chụp mũ cho Người là một kẻ phản động, âm mưu xách động quần
chúng chống việc nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma, để Người sẽ bị chính quyền bắt bớ
và kết án.
2) CÂU TRẢ LỜI CỦA ĐỨC GIÊ-SU: Trước hết Đức Giê-su đã vạch trần
âm mưu đen tối của họ khi nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả
hình !” Rồi sau đó Người đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế. Đồng tiền này bằng
bạc, trên có khắc hình và tên hiệu của hoàng đế Rô-ma. Khi được hỏi hình và tên
hiệu của ai, họ thưa: “Của Xê-da”. Dĩ nhiên, Đức Giê-su đã biết rõ hình đó là
của ai, nhưng Người muốn chính miệng họ nói ra điều này, để cho họ thấy: Một
khi họ đã chấp nhận sử dụng đồng tiền của Rô-ma, tức là họ đã mặc nhiên công
nhận quyền cai trị của Xê-da và coi ông là hoàng đế của mình. Từ đó, Đức Giê-su
tuyên bố hai điều như sau:
- “Của Xê-da trả về cho Xê-da”:
nghĩa là phải trả cho Xê-da đồng tiền mang hình và danh hiệu của ông. Khi đã
chấp nhận quyền cai trị của hoàng đế Rô-ma, thì đương nhiên cũng phải chu toàn
bổn phận đóng thuế cho Xê-da ! Đây là đáp án cho câu hỏi “Có được phép nộp thuế
cho Xê-da hay không ?”.
- “Của Thiên Chúa, trả về Thiên
Chúa” (Mt 22,21): Tuy bọn người này không hỏi về bổn phận đối với Thiên Chúa,
nhưng Đức Giê-su vẫn đề cập đến: Phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình
ảnh Người. Đây là một bổn phận quan trọng mà những ai muốn trở nên con thảo của
Thiên Chúa không thể không chu toàn.
3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Các tín hữu chúng ta vừa là công dân
của nước trần gian, lại vừa là công dân của Nước Trời. Là công dân nước trần
gian, chúng ta được hưởng những quyền lợi của công dân theo Hiến Pháp và luật
pháp quy định, như các quyền tự do cư trú, tự do tín ngưỡng, được bảo vệ tài
sản tính mạng, quyền ứng cử và bầu cử… Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng có
trách nhiệm phải thi hành nghĩa vụ công dân như đóng thuế, bảo vệ an ninh tổ
quốc… Những kẻ vi phạm các nghĩa vụ công dân vừa có tội với đất nước, lại vừa
có lỗi với Thiên Chúa như thánh Phao-lô đã dạy: “Mỗi người phải phục tùng chính
quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính
hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập” (Rm 13,1 ; Ga 19,11a). Trừ phi thế quyền
buộc chối bỏ đức tin, thì bấy giờ phải theo nguyên tắc được thánh Phê-rô nói
lên trước Thượng Hội Đồng Do Thái: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người
phàm” (Cv 5,29).
Là công dân của Nước Trời, chúng ta
cũng được hưởng những quyền lợi thiêng liêng tinh thần và phải có trách nhiệm
chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa, là tôn trọng các công trình do Người sáng
tạo, nhất là tôn trọng con người là tạo vật được Thiên Chúa tạo nên giống hình
ảnh Người (x. St 1,26); Bên cạnh đó, chúng ta cũng có nghĩa vụ giúp người lương
nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, và ăn ở như con cái hiếu thảo với Đấng đã
tác thành nên mình. Ngoài ra chúng ta còn phải tôn trọng các tài nguyên thiên
nhiên và muôn sinh vật do Thiên Chúa dựng nên. Nhất là phải sử dụng những hồng
ân Chúa ban như sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, và tài năng để làm vinh danh Chúa
và phục vụ tha nhân (x. Mt 25,41-45).
4. THẢO LUẬN:
Khi thế quyền
vi phạm quyền tự do tín ngưỡng thì bạn cần có thái độ ra sao ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU: Trong Tin Mừng hôm
nay, khi nói: “Của Xê-da trả về Xê-da”, Chúa đã dạy chúng con phải biết yêu mến
và xây dựng tổ quốc trần gian bằng việc chu toàn các nghĩa vụ công dân. Nhưng
Chúa cũng nhắc chúng con phải ý thức chu tòan bổn phận đối với Cha trên trời
khi nói: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Xin cho chúng con ý thức rằng: Dù
đang sống giữa thế gian, nhưng chúng con không thuộc về trần gian như lời thánh
Phao-lô: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức
Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Do đó, ngay từ bây giờ, Chúa
muốn chúng con phải biết chu toàn bổn phận mến Chúa yêu người theo gương Chúa
làm và lời Chúa dạy.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM