Chúa Nhật Thứ 12 Thường Niên
(23-6-2002)
· Gr 20,10-13: (11) Đức Chúa hằng ở bên con như một trang
chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không
thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục
muôn đời không thể quên.
· Rm 5,12-15: (15) Sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được
với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà
muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là
Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.
· TIN MỪNG: Mt 10,26-33
Hãy nói giữa ban ngày, đừng sợ (// Lc 12,2-9)
(26) «Vậy anh em đừng sợ người
ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật,
mà người ta sẽ không biết. (27) Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy
nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao
giảng.
(28) «Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được
linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong
hoả ngục. (29) Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không
một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. (30) Thì đối với anh em cũng
vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. (31) Vậy anh em đừng
sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
(32) «Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng
sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (33) Còn ai
chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha
Thầy, Đấng ngự trên trời.
Câu hỏi gợi ý:
1. Phải can đảm thì mới làm ngôn sứ được, hay là phải quyết tâm
làm ngôn sứ thì mới phát sinh lòng can đảm? Câu nào đúng hơn?
2. Bạn có quan tâm đến nghĩa vụ ngôn sứ (=làm chứng cho Thiên
Chúa, cho Đức Giê-su, cho chân lý, công lý và tình thương) trong đời sống
không?
3. Làm sao để đừng sợ khi phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân
lý, công lý và tình thương?
Suy tư gợi ý:
Bài Tin Mừng hôm nay nói về
đức «vô úy» (không sợ) hay «can đảm» mà người Ki-tô hữu sẽ có khi quyết tâm thi
hành nghĩa vụ vương đế (làm chủ) và ngôn sứ (làm chứng) mà họ đã lãnh nhận khi
chịu phép rửa tội. Bài Tin Mừng hôm nay nói rất mạnh đến sứ mạng của chúng ta
là làm chứng cho Đức Giê-su: «Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói
ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng».
Sứ mạng ấy không phải là ta muốn làm hay không tùy ý ta, mà nó có thể đem đến
những kết quả tốt: «Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ
tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy», hoặc hậu quả xấu: «Ai chối Thầy
trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy».
1. Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời
sống Ki-tô hữu
Đây là một nghĩa vụ quan trọng
nhưng người Ki-tô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách
nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói
chung, người ta có khuynh hướng giản lược Ki-tô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm
lễ, hay thờ phượng Chúa) mà bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:
– vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và
– ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và
tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).
Thật vậy, người ta thường coi
việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống
cho có tình có nghĩa với người khác. Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí
tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và
tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử
bất công. Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử
như thế, người Ki-tô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình
một thứ Ki-tô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Ki-tô giáo «thuốc
phiện», đầy tính ru ngủ… Ki-tô giáo đó khác hẳn với thứ Ki-tô giáo do Đức
Giê-su thiết lập, một Ki-tô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang
nặng tính dấn thân và phục vụ.
Chúng ta cùng xét lại xem
trong ba nghĩa vụ ấy Đức Giê-su coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài
nói: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13); «Những điều quan trọng
nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23b); «Nếu
khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có
chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với
người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt 6,23-24); Ngài còn
nhấn mạnh: «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh
em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay
việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi
thường (Mt 23,23c).
Bổn phận ưu tiên phải làm
chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình – là hiện
thân của Đức Giê-su – cũng được Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: «Anh em có muốn
tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần
truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại
bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là
mình Thầy” cũng chính là Đấng sẽ nói "Các ngươi đã thấy ta đói mà không
cho ăn"… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng
vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát
đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn Giáo Hội
tại châu Á, số 41§2). Có phải nhiều người chúng ta trong thực tế đã quan niệm
và hành xử khác hẳn không?
Dù vô tình hay cố ý, sự giản
lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào,
việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng
cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng
hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và
sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho
giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa vụ kia
mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy
sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết
cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai
nghĩa vụ này, cần phải «dám», phải «vô úy», «không sợ», phải can đảm chấp nhận
đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức «vô úy» rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ
ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ
ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.
2. Tại sao lại «đừng sợ»?
Đức Giê-su đưa ra một số lý do
để khuyên ta đừng sợ:
a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ
người ta
Ngài đã đưa ra một nỗi sợ lớn
hơn để tiêu diệt nỗi sợ nhỏ hơn. Ngài nói: «Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà
không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả
ngục». Thật vậy, rất có thể một ngày nào đấy Vua Giê-su nói với ta: «Quân bị
nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho
tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn…»
(Mt 25,41tt). Hoặc «Phường hèn nhát kia, hãy xéo khỏi mặt Ta, vì các ngươi đã
không dám làm chứng, không dám nói sự thật để bênh vực công lý, bênh vực Ta khi
Ta bị đàn áp, bách hại, hàm oan…». Bài Tin Mừng cũng nói: «Ai chối Thầy trước
mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy». Nghĩ như thế,
ta sẽ có thêm can đảm để nói và làm những gì cần phải nói phải làm. Không chịu
chấp nhận tai họa nhỏ để rồi phải chấp nhận một tai họa lớn gấp bội thì thật là
ngu xuẩn!
b) Phải tin vào phẩm giá cao
quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa
Con người – nhất là người
Ki-tô hữu – là «con cái Thiên Chúa» (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được
dựng nên «giống như Ngài» (St 1,26), «theo hình ảnh của Ngài» (1,26.27), được
«thông phần bản tính Thiên Chúa» (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga
3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến
nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm
5,6-8; 1Cr 15,3). «Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào», thế mà «không một con
nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa». Là con cái Thiên Chúa, được thông
phần bản tính Ngài, ta quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: «anh em còn quý giá hơn
muôn vàn chim sẻ», đến nỗi «tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi»! Như
vậy, có chuyện gì xảy đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do thánh ý
Ngài?
3. Xét mình
Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ
không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa,
cho chân lý, công lý chăng? Rất có thể ngoài miệng ta tuyên xưng đức tin rất
mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng kết án những kẻ tuyên xưng khác với ta. Nhưng nếu
thành thực xét lại niềm tin của ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa để dám dấn
thân thật sự, rất có thể ta lại thấy đức tin ta còn yếu kém hơn cả những kẻ ta
kết án! Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường
nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn
ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể
hèn nhát «một cách có lý» hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế,
thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc
10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa
vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi
Ki-tô hữu cần năng tự vấn!
Lạy Cha, con là người nhút
nhát, nhưng con lại không muốn sống hèn nhát, không muốn trở nên một thằng hèn.
Xin ban cho con thật nhiều tình yêu đối với Cha và tha nhân, vì chỉ có tình yêu
mới làm cho con can đảm thật sự. Cũng như người mẹ vì yêu thương con mà trở nên
vô cùng can đảm, sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết khi con mình gặp
nguy hiểm. Xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa!