Chúa
Nhật Thứ 20 Thường Niên
(18-8-2002)
· Is
56,1.6-7: (6) Người ngoại bang nào gắn
bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ
của Người, (…) (7) đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu
nguyện của Ta. (…) Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân
· Rm
11,13-15.29-32: (13) Tôi xin ngỏ lời
với anh em là những người gốc dân ngoại (…) (30) Trước kia anh em đã không vâng
phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ (=người Do Thái)
không vâng phục ; (31) họ cũng thế :
nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để
chính họ cũng được thương xót.
· TIN MỪNG: Mt 15,21-28
Đức Giê-su chữa con gái người đàn bà Ca-na-an
(Mc 7,24-30)
(21) Ra
khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn,
(22) thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên
rằng: «Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị
quỷ ám khổ sở lắm!» (23) Nhưng Người
không đáp lại một lời.
Các
môn đệ lại gần xin với Người rằng: «Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo
sau chúng ta mà kêu mãi!» (24) Người
đáp: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà
thôi». (25) Bà ấy đến bái lạy mà thưa
Người rằng: «Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!»
(26) Người đáp: «Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó
con». (27) Bà ấy nói: «Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn
những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống»
(28) Bấy giờ Đức Giê-su đáp: «Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn
sao thì sẽ được vậy». Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại
sao Đức Giê-su lại đối xử với người phụ nữ Ca-na-an một cách có vẻ kém nhân bản
như thế? Ta có nên bắt chước Ngài cư xử như thế với người ngoại giáo không?
2. Đức
Giê-su thử thách niềm tin người phụ nữ Ca-na-an. Ngài có thử thách ta như vậy
không? để làm gì? có cần thiết và ích lợi cho ta không?
Suy tư gợi ý:
1. Thái
độ đạo sư của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng này
Để hiểu thái độ của Đức Giê-su trong đoạn Tin Mừng
này, ta nên đặt Ngài ở vị thế của một đạo sư Đông phương chứ không phải của một
người thông thường. Các đạo sư Đông phương nhiều khi có những cách hành xử khác
thường, với mục đích giáo dục (cho một bài học) hoặc thử thách (gây khó khăn)
người đệ tử. Đó không phải là những hành động Ngài muốn làm gương để mọi người
bắt chước. Chẳng hạn thiền sư Đơn Hà chẻ tượng Phật trong chùa ra làm củi để
sưởi vì đệ tử kiếm củi không ra. Mục đích của ông không phải để các đệ tử từ
nay cứ thế mà bắt chước ông, mà để dạy cho họ biết Phật không phải là những bức
tượng bằng vật chất, mà là một thực thể sinh động và thiêng liêng ở ngay trong
tâm hồn của mỗi người: «Tức Tâm tức Phật». Ông làm thế vì thấy các đệ tử quá
chú trọng vào những nghi thức bề ngoài trước tượng Phật, mà quên bổn phận quan
trọng hơn rất nhiều là phải ý thức tâm mình mới là Phật đích thực, và phải tu
tâm, tức tập sống cho xứng với phẩm giá cao quí đó.
2. Giải
thích tình huống trong bài Tin Mừng
Đức Giê-su và và môn đệ lúc này đang ở miền Tia và
Xi-đôn, không thuộc vùng đất của Do Thái. Đây là một dịp tốt khiến Ngài ý thức
lại sứ mạng loan báo Tin Mừng cho dân ngoại và cứu độ họ. Còn Ca-na-an là một
trong những tên cũ của Pa-lét-tin, vốn là một dân tộc thù nghịch với Dân Do
Thái từ thời các tổ phụ. Ban đầu, Thiên Chúa hứa cho A-bra-ham vùng đất của dân
Ca-na-an (x. St 12,6-7; 15,18), và dân Do Thái đã phải chiến đấu rất cam go –
khi thắng khi bại – với họ để chiếm lấy đất ấy (x. Xh 23,23-24; Gs 3,10; Tl
1,9-10). Thái độ cố hữu của người Do Thái là tỏ ra không ưa người Ca-na-an, nếu
không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm, khó chịu và muốn xua
đuổi của các tông đồ đối với người phụ nữ Ca-na-an là một điển hình: xem ra các
ông chẳng có cảm tình với bà. Trong bài Tin Mừng này, người phụ nữ Ca-na-an đại
diện cho dân ngoại.
Tâm tình của Đức Giê-su đối với bà này không phải
giống như các tông đồ hay người Do Thái, vì Ngài cũng có sứ mạng đối với dân
ngoại, nên Ngài cũng rất yêu thương họ. Nhưng Ngài lại tỏ thái độ xem ra không
thân thiện lắm đối với bà này vì Ngài có dụng ý của Ngài. Thái độ của Ngài là
một sứ điệp chủ yếu cho các tông đồ và người Do Thái hơn là cho bà ấy. Ngài chỉ
muốn thử thách bà ấy một chút thôi.
3. Thái
độ và chủ ý của Đức Giê-su
Người phụ nữ Ca-na-an này có đứa con gái bị quỷ
ám, đương nhiên là đáng thương. Bà xin Ngài chữa cho con bà. Nhưng Ngài lại nói
với các môn đệ : «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà
Ít-ra-en mà thôi». Thực ra Tin Mừng và ơn cứu độ là dành cho mọi người, mọi dân
tộc, nhưng trước tiên là dành cho dân Do Thái, sau mới tới các dân tộc khác.
Tuy nhiên, mỗi sự mỗi việc đều có thời điểm của nó. Vào thời điểm Đức Giê-su
nói câu này, Tin Mừng và ơn cứu độ đang ở giai đoạn dành cho người Do Thái.
Chính Ngài đã từng ra lệnh cho các môn đệ: «Tốt hơn, anh em hãy đến với các con
chiên lạc nhà Ít-ra-en» (Mt 10,6). Nhưng sẽ tới thời điểm Đức Giê-su ra lệnh
cho các ông: «Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ …» (Mt 28,19).
Đối với các môn đệ, Đức Giê-su muốn chuẩn bị báo
trước cho các ông sơ đồ sự việc sẽ xảy ra: Tin Mừng và ơn cứu độ được Ngài rao
giảng ưu tiên cho người Do Thái, và sau đó người Do Thái có nhiệm vụ đem Tin
Mừng và ơn cứu độ ấy đến với muôn dân. Nhưng sơ đồ ấy đã không xảy ra, vì chính
người Do Thái đã từ chối ưu tiên ấy. Dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt
21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), và dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc
14,15-24) nói lên sự từ chối ấy. Vì thế, Tin Mừng và ơn cứu độ được đem ra rao
giảng cho dân ngoại. Thánh Phao-lô cũng nói lên điều ấy trong thư Rôma 9,25-33.
Đức Giê-su đến với người Do Thái, nhưng nói chung họ đã không tin Ngài, thậm
chí đã giết Ngài. Trái lại, chính dân ngoại lại tin vào Ngài, và vì thế họ được
cứu độ. Điều quan trọng để được cứu là họ phải tin vào Ngài, điều này được chứng
tỏ trong việc Ngài cứu con gái người phụ nữ Ca-na-an có niềm tin rất đáng trân
trọng này.
Đức Giê-su, với tư cách một đạo sư, đã thử thách
lòng tin của người phụ nữ Ca-na-an. Vả lại, qua việc biểu lộ niềm tin của bà
ta, Ngài cũng muốn cho các môn đệ thấy rằng: ai tin vào Ngài, dù là dân ngoại,
đều được Ngài xót thương và cứu độ. Chính vì thế, Ngài đã nói với bà những lời
mà khi nghe ta cũng phải chạm tự ái thay cho bà, và có thể ta thầm trách Đức
Giê-su đã quá tàn nhẫn, hoặc đã quá coi thường dân ngoại. Vì ví dân Do Thái như
con cái trong nhà (=con người), còn dân ngoại như chó (=thú vật) chỉ đáng ăn đồ
thừa của con cái, thì quả thật là quá đáng! Nhưng Ngài cố ý nói như thế để thử
thách niềm tin của bà chứ không phải Ngài khinh bỉ bà như thế. Vả lại, Đức
Giê-su chỉ làm phép lạ khi người ta biểu lộ niềm tin. Ngài không thể làm phép
lạ cho họ khi họ không tin (x. Mt 13,58). Người phụ nữ Ca-na-an này đã tỏ ra
niềm tin, lòng khiêm nhường và sự kiên nhẫn rất đáng khen, chính vì thế, bà đã
được toại nguyện.
4. Thiên
Chúa thử thách để củng cố và thánh hóa ta
Trong cuộc đời, rất nhiều khi ta bị/được Thiên
Chúa thử thách, nghĩa là Ngài cố tình để ta lâm vào cảnh đau khổ, cùng khốn,
khó khăn. Cả cuốn sách về ông Gióp trong Kinh Thánh nói lên sự thử thách có thể
tới mức rất khủng khiếp của Ngài. Và thái độ của Đức Giê-su đối với người phụ
nữ Ca-na-an là một thí dụ. Nhưng cuộc thử thách nào cũng phát xuất từ tình
thương vô biên của Ngài đối với ta. Vì thử thách trong một mức độ nào đó là rất
cần thiết để giúp con người tiến bộ, phát triển đức độ hoặc tài năng. Qua thử
thách ta mới được rèn luyện nên vững vàng, bản lãnh. Và nhờ có thử thách ta mới
chứng tỏ được đức tin, đạo đức, tài năng hay bản lãnh của ta tới mức độ nào. Vì
thế, Thiên Chúa luôn luôn thử thách con người, nhất là những người yêu mến Ngài
và được Ngài yêu mến, những người Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi, mục đích là để
họ thăng tiến và xứng đáng hưởng vinh quang (x. Rm 8,30). Đến nỗi thánh
Tê-rê-xa A-vi-la khi bị thử thách quá độ đã phải kêu lên: «Chúa đối xử với bạn
thân của Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn thân là phải!». Vì thế, ta hãy tạ ơn
Chúa khi được Ngài thử thách. Thử thách xong mà lại được toại nguyện như người
phụ nữ Ca-na-an thì thử thách đó cũng đáng mong ước!
5. Hãy
rút kinh nghiệm bài học lịch sử
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su nói với các tông
đồ: «Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi».
Thiên Chúa và Đức Giê-su đã dành cơ hội ưu tiên cho người Do Thái trong việc
tiếp nhận Tin Mừng và ơn cứu độ. Nhưng lịch sử cho thấy chính người Do Thái đã
từ chối ưu tiên ấy: thậm chí hiện nay đa số người Do Thái trên thế giới vẫn còn
giữ đạo của Mô-sê, hay đạo của Cựu ước. Vì thế, các tông đồ đã quay sang rao
giảng Tin Mừng cho dân ngoại, tức những người ngoài Do Thái thời đó. Và «dân
ngoại» đã tiếp nhận Tin Mừng của Đức Giê-su, đã trở thành Ki-tô hữu, và hiện
nay đã chiếm tới 1/3 thế giới, tức khoảng 1 tỷ người, trong đó có chúng ta.
Hiện nay, các Ki-tô hữu – chiếm 1/3 thế giới – đã
thay thế dân Do Thái trong việc làm cầu nối giữa Thiên Chúa với thế giới, và có
nhiệm vụ đem Tin Mừng đến cho 2/3 thế giới còn lại. Bài học lịch sử từ sự kiện
dân Do Thái từ chối ưu tiên mà Thiên Chúa dành cho họ khiến chúng ta phải coi
chừng kẻo chính chúng ta, Giáo Hội Công giáo hiện nay, lại đi vào chính vết xe
đã đổ ấy. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống ba «điều quan trọng nhất trong Lề
Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23), là ba điểm cốt yếu
về thực hành trong Do Thái giáo hay Ki-tô giáo. Nhưng rất có thể là chính người
Ki-tô hữu lại coi thường những điều cốt yếu ấy để quan trọng hóa những điều phụ
thuộc như các lễ nghi, những hình thức bề ngoài… không khác gì các Pha-ri-siêu
thời trước (Mt 23,13-32; Mc 12,40; Lc 11,39-48; 20,47). Đang khi ấy, rất có thể
người ngoài Ki-tô giáo lại sống những điều quan trọng ấy hơn chúng ta. Thật
thế, nhiều tín đồ các tôn giáo khác sống tốt hơn chúng ta về những điều ấy. Vì
thế, một cách nào đó, chúng ta không đáp ứng được điều Thiên Chúa chờ mong nơi
chúng ta, là trở thành cầu nối giữa Ngài và tôn giáo, mà còn lại từ chối sự ưu
tiên trong việc lãnh nhận ơn cứu độ vì cách sống thiếu tình thương của mình.
Hãy cẩn thận để tránh vết xe đi trước đã đổ.
Lạy Cha, xin cho con học được những bài học mà Đức
Giê-su đã muốn cho con học qua cách hành xử của Ngài đối với người phụ nữ
Ca-na-an. Xin cho con nhận ra tình thương của Cha trong những cơn thử thách,
những khi gặp khó khăn đau khổ, vì mục đích của Cha khi thử thách là muốn con
thăng tiến hơn trên con đường hoàn thiện. Xin cho con trở thành cầu nối vừa
giới thiệu vừa đem Cha đến với những người sống chung quanh con. Amen.