Chúa Nhật thứ 3
Phục Sinh
(14-4-2002)
ÐỌC LỜI CHÚA
Cv 2,14.22-33: (23) Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Ðức
Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập
giá mà giết đi. (24)
Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ
của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi.
1Pr 1,17-21: (21) Nhờ Ðức Ki-tô, anh em tin vào Thiên Chúa, Ðấng đã
cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt
niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.
TIN MỪNG: Lc
24,13-35
Ðức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường
Em-mau
(// Mc
16,12-13)
(13) Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong
nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười
một cây số. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những
sự việc mới xảy ra. (15) Ðang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì
chính Ðức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về
chuyện gì vậy? Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
(18) Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát
trả lời: Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết
những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay. (19) Ðức Giê-su hỏi: Chuyện gì vậy? Họ thưa: Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một
ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn
dân. (20) Thế mà các
thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã
đóng đinh Người vào thập giá. (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính
Người là Ðấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là
ngày thứ ba rồi. (22)
Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh
ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy
thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự
việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.
(25) Bấy giờ Ðức Giê-su nói với hai ông
rằng: Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các
ngôn sứ! (26) Nào Ðấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ
hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (27) Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải
thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
(28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Ðức
Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời
đã xế chiều, và ngày sắp tàn. Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời
chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người
lại biến mất. (32) Họ
mới bảo nhau: Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho
chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?
(33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại
Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. (34) Những người này bảo hai ông: Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã
hiện ra với ông Si-môn. (35) Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã
nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
SUY NIỆM
Câu hỏi gợi ý:
1. Có bao giờ bạn nghĩ: rất có
thể mình cũng sẽ gặp trường hợp tương tự như hai môn đệ làng E-mau: một người
nào đó nói chuyện với mình, yêu cầu mình giúp đỡ, lại chính là Ðức Giê-su
không? Có thể rút ra bài học gì từ bài Tin Mừng hôm nay về sự đồng hóa giữa Ðức
Giê-su và tha nhân (tha nhân là Ðức Giê-su, Ðức Giê-su là tha nhân của ta)?
2. Có người chủ trương: yêu
người chính là yêu Thiên Chúa. Chủ trương ấy có nền tảng trong Kinh Thánh
không? Hãy trưng dẫn một vài câu tiêu biểu.
Suy tư gợi ý:
1. Hai tông đồ ở E-mau không nhận ra Ðức Giê-su
nơi người bộ hành cùng đi với mình
Một
điều khá kỳ thú trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là các tông đồ đã sống với Ðức
Giê-su suốt ba năm, đã từng nghe Ngài nói, giảng dạy, thế mà nay, khi Ngài sống
lại, cùng đi với các ông, giảng dạy cho các ông, các ông lại không nhận ra Ngài.
Có lẽ Ngài đã mang một bộ mặt xa lạ, đã đội lốt một người bộ hành như bao bộ
hành khác. Ðiều các ông không ngờ được là người mà các ông tưởng là một bộ hành
xa lạ ấy lại chính là Ðức Giê-su, Thầy mình. Các ông chỉ nhận ra Ngài khi Ngài
đồng bàn với họ, chính xác là khi Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ
ra trao cho họ. Nghĩa là khi các ông thấy có sự giống nhau giữa người bộ hành
này với Thầy mình. Rất may là các ông đã đối xử với người bộ hành ấy rất tốt:
chăm chú nghe người ấy nói, mời ở lại dùng bữa. Nếu không thì thật đáng tiếc.
2. Coi chừng kẻo chính chúng ta cũng không nhận
ra Ðức Giê-su nơi những người chung quanh ta
Ðiều
kỳ thú đó cũng xảy ra một cách tương tự biết bao lần trong đời sống chúng ta.
Chúng ta sống với những người chung quanh mình, mà không bao giờ hoặc rất ít
khi ta nhận ra Thiên Chúa hay Ðức Giê-su ở nơi họ. Dường như đối với ta, Thiên
Chúa hay Ðức Giê-su là người ở đâu đâu, ở trên trời, ở trong nhà tạm của nhà
thờ, hoặc ở khắp nơi một cách thiêng liêng. Ngài có vẻ là một thực tại rất trừu
tượng, nếu có cụ thể thì chỉ là những ảnh vẽ, những bức tượng bất động, vô hồn.
Và tình yêu của chúng ta đối với Ngài cũng rất trừu tượng, rất bí tích, chỉ
được thể hiện bằng sự hướng thiện, bằng việc năng cầu nguyện, năng tham dự và
lãnh nhận các bí tích.
Nhưng
bài Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một chân lý hết sức quan trọng.
Thiên Chúa hay Ðức Giê-su có thể chính là người bộ hành mà mình ngỡ là rất xa
lạ. Nghĩa là Ngài có thể mặc lấy những bộ mặt khác nhau, hình dáng khác nhau,
với những tính tình khác nhau, tư cách điệu bộ khác nhau nơi những người ta gặp
trên đời, nơi những người sống chung quanh ta. Và tình yêu của chúng ta - nếu
có - đối với Ngài thì phải được thể hiện cụ thể nơi những con người cụ thể ấy,
chứ không phải một cách trừu tượng. Có thể nói: muốn yêu Ðức Giê-su, thì cách
tốt nhất, cụ thể nhất và chắc chắn nhất là yêu những người chung quanh ta, và
bất kỳ người nào ta gặp trong cuộc đời. Và cũng có thể nói một cách chắc chắn:
nếu ta không yêu những người ấy, thì ta không thật sự yêu Ðức Giê-su hay yêu
Thiên Chúa. Nếu ta tưởng rằng mình yêu Thiên Chúa, yêu Ðức Giê-su bằng cách này
hay cách khác, nhưng ta không hề yêu Ngài nơi những con người cụ thể chung
quanh ta, thì tình yêu ấy chắc chắn chỉ là một ảo tưởng. Rất có thể ta đang yêu
chính bản thân mình một cách ích kỷ, nhưng sự ích kỷ ấy lại mặc lấy một hình
thức khôn khéo là yêu Thiên Chúa hay Ðức Giê-su một cách trừu tượng.
3. Ðức Giê-su đồng hóa chính Ngài với tha nhân
của ta
Có
thể nói những người chung quanh ta là những Ðức Giê-su rất sống động, rất cụ
thể. Hay nói một cách khác, trong một mức độ nào đó, họ chính là hiện thân của
Thiên Chúa hay Ðức Giê-su. Chân lý này có một nền tảng rất vững chắc trong Kinh
Thánh.
a. Tha nhân là hình ảnh
của Thiên Chúa (x. St
1,26.27; 9,6): Chúng ta không thể yêu Thiên Chúa hay Ðức Giê-su mà không yêu
hình ảnh hay hiện thân của Ngài. Khi hai người yêu thương nhau, họ rất quí hình
ảnh của nhau, và hình ảnh đó là một biểu trưng có tính đại diện cho chính người
trong ảnh. Coi thường hay xúc phạm đến hình ảnh của một người luôn luôn được
coi là xúc phạm đến chính con người ấy. Hai môn đệ làng E-mau nhận ra người bộ
hành là Ðức Giê-su khi người ấy bẻ bánh giống
như Ðức Giê-su. Con người được tạo dựng giống như Thiên Chúa (St 1,26; 5,1), điều ấy có làm ta nhận
ra Ngài nơi họ không?
b. Tha nhân là con cái
Thiên Chúa (x. Lc
20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10; ): Tất cả chúng ta đều
là con cái Thiên Chúa, đều gọi Thiên Chúa là Cha, và cùng là anh em với nhau.
Con cái một cách nào đó là hiện thân của cha mẹ. Kinh nghiệm đời sống cho ta
thấy: ai yêu cha mẹ tất nhiên cũng yêu thương anh chị em mình. Và ai không yêu
thương anh chị em mình, chắc chắn tình yêu đối với cha mẹ cũng rất nhạt nhẽo
hoặc giả tạo.
c. Từ những
căn bản trên, Ðức Giê-su
đồng hóa chính Ngài với tha nhân của ta (x. Mt 10.40; 18,5;
25,40.45; Lc 10,16): Ta làm gì cho tha nhân của ta, trước tiên là những người
gần gũi ta nhất, rồi đến những người sống chung quanh ta, những người ta thường
gặp, và tất cả mọi người, chính là làm cho Ngài. Ta yêu họ chính là ta yêu
Ngài, ta ghét họ chính là ta ghét Ngài, hy sinh cho họ là hy sinh cho Ngài, làm
hại họ là làm hại chính Ngài.
4. Yêu tha nhân là yêu Thiên Chúa, và là chu toàn
luật Chúa
Trong
Cựu Ước, khi trình độ con người còn thấp, có sự phân biệt rõ rệt giữa Thiên
Chúa và tha nhân. Vì thế, có hai điều răn quan trọng nhất là: Hãy yêu mến ÐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng
hết dạ, hết sức anh em (Ðnl 6,5) và hãy
yêu người khác như chính mình (Lv 19,18). Ðức Giê-su đã nhắc lại hai
điều răn ấy như hai điều luật căn bản của Lề Luật cũ. Nhưng qua thời Tân Ước,
khi trình độ của con người cao hơn, hai điều răn ấy được tóm lại thành một: hễ
yêu Chúa tất nhiên phải yêu tha nhân, và hễ yêu tha nhân thật tình tất nhiên là
đã yêu Chúa rồi. Thánh Gio-an viết: Nếu ai
nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể
yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Vì thế, thánh
Phao-lô viết: Ai yêu người, thì đã chu toàn
Lề Luật (Rm 13,8.10), Anh em hãy
mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Ðức Ki-tô
(Gl 6,2). Thánh Gia-cô-bê cũng
nói: Anh em làm điều tốt nếu anh em chu toàn
luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình (Gc 2,8).
Tóm
lại, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta chân lý quan trọng này: tha nhân
chính là hình ảnh, hay một cách nào đó, là hiện thân của Thiên Chúa hay Ðức
Giê-su. Vì thế, chúng ta hãy tập nhìn họ là Em-ma-nu-el
(Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta). Thiên Chúa hay Ðức Giê-su đang ở giữa chúng ta, ở
với chúng ta qua những người chung quanh ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, bài Tin Mừng hôm nay thật là tuyệt vời,
nó cho con thấy và nhắc lại cho con một chân lý kỳ diệu: Những người gần gũi
với con, sống chung quanh con một cách nào đó là hiện thân của Cha, của Ðức
Giê-su. Vì thế, yêu Cha, yêu Ðức Giê-su tất nhiên phải yêu những người ấy. Và
chỉ khi con yêu họ, con mới chứng tỏ được rằng con thật sự yêu Cha và yêu Ðức
Giê-su. Xin giúp con yêu họ thật sự bằng hành động cụ thể.
Joan Nguyễn Chính Kết