Chúa Nhật Thứ 4
Phục Sinh
(21-4-2002)
ÐỌC LỜI CHÚA
Cv 2,14a.36-41: (36) Vậy toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này:
Ðức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Ðức
Chúa và làm Ðấng Ki-tô.
1Pr 2,20b-25: (24) Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân
thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc
đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa
lành.
TIN MỪNG: Ga
10,1-10
Vị Mục Tử nhân lành
Khi ấy, Ðức Giê-su nói với những người Pha-ri-siêu: (1) Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn
chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của
anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo
sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng
không nhận biết tiếng người lạ. (6) Ðức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều
Người nói với họ.
(7) Vậy, Ðức Giê-su lại nói: Thật, tôi bảo
thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không
nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ
được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi,
tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
SUY NIỆM
Câu hỏi gợi ý:
1. Ðức Giê-su nói: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua
lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người
ấy là mục tử. Từ câu này, ta có thể suy ra phong cách của người mục
tử chân chính phải như thế nào?
2. Người mục tử chân chính phải
có đức tính cốt yếu nào khiến mục tử khác hẳn kẻ chăn chiên thuê hay bọn trộm
cắp chiên?
3. Qua bài Tin Mừng này, Ðức
Giê-su muốn nói với chính bạn điều gì? Ngài muốn bạn làm gì và có thái độ nào
đối với Ngài?
Suy tư gợi ý:
1. Người mục tử trong nếp sống
của người Do Thái xưa
Ðể
hiểu được ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần trở về với nếp sống
của người Do Thái thời Ðức Giê-su. Thời ấy, chiên được nuôi theo bầy hàng trăm
con tại những đồng cỏ xanh. Mục tử hay người chăn chiên đi theo bầy chiên và
cùng sống với chiên ngày này qua ngày khác. Ban ngày, mục tử dẫn đàn chiên đi
từ đồng cỏ này đến đồng cỏ khác để chiên ăn cỏ. Ban đêm, để tránh trộm cướp hay
thú hoang, và để tránh mưa tránh rét, mục tử đưa chiên vào một nơi an toàn được
gọi là ràn chiên, thường là một
hang đá hay một khu đất trống có hàng rào bằng đá hoặc bằng cây bao quanh.
Người chăn chiên ngủ ngay trong ràn chiên để bảo vệ chiên, và thường ở ngay cửa
ràn. Mục tử và đàn chiên vì thế gắn bó với nhau rất mật thiết. Mục tử chỉ biết
có chiên của mình, và chiên cũng chỉ biết và chỉ đi theo mục tử của mình, không
chịu theo bất kỳ ai khác.
2. Ý tứ của Ðức Giê-su khi nói dụ ngôn này
Ðức
Giê-su nói dụ ngôn này với người Pha-ri-siêu, sau khi đối chất với họ về việc
Ngài chữa lành người mù từ thuở mới sinh (Ga 9). Nên nhớ: những người
Pha-ri-siêu là những người lãnh đạo tinh thần trong Do Thái giáo, tức đóng vai
trò mục tử đối với đàn chiên. Qua dụ ngôn này, Ngài muốn cho họ thấy hai thái
độ trái nghịch nhau giữa Ngài và họ trong cách đối xử với dân chúng hay các tín
đồ tôn giáo. Sự trái nghịch nhau đó được thể hiện qua cách ứng xử với người mù
bẩm sinh.
Cách ứng xử của người Pha-ri-siêu:
Khi
thấy người mù được chữa lành, thay vì mừng cho anh ta đã thoát khỏi điều bất
hạnh vô cùng lớn lao, những người Pha-ri-siêu lại có một thái độ thù nghịch và
bực tức. Họ tỏ ra không có một chút tình yêu, lòng thương xót hay sự cảm thông
nào đối với người mù được Ðức Giê-su chữa lành. Trái lại, họ đã dùng lề luật để
bắt bẻ vị ân nhân đã chữa lành bệnh cho anh ta, đồng thời gây khó dễ cho anh và
gia đình anh vì việc được chữa lành ấy. Ðối với dân chúng, họ không giống như
người mục tử đích thực đối với đàn chiên, mà giống như người chăn chiên thuê.
Kẻ chăn chiên thuê không yêu thương gì chiên, vì chiên không phải là của hắn
(x. Ga 10,12-13).
Vì
thế, trong tôn giáo, những người Pha-ri-siêu lợi dụng chức vụ lãnh đạo, hướng
dẫn để ăn trên ngồi trốc, đè đầu đè cổ dân chúng (x. Mt 23,5-6). Họ giảng dạy
toàn những điều tốt nhưng chỉ để cho dân chúng làm chứ không phải họ làm (x. Mt
23,2-3). Họ giảng dạy điều tốt vì chức vụ họ đòi buộc phải làm như vậy, chứ
không phải vì lòng yêu mến sự thiện mà giảng dạy. Ðức Giê-su đã tố cáo việc họ
lợi dụng tôn giáo để bóc lột người nghèo, người cô thân cô thế trong xã hội
(23,4.14). Nhưng họ vẫn muốn được mọi người tôn trọng, ca tụng, suy tôn, nên
phải giả bộ đạo đức, phải làm những việc tốt để khoa trương (23,5), và muốn mọi
người gọi mình là Rabbi hay Thầy (23,6).
Cách ứng xử của Ðức Giê-su
Ðức
Giê-su có một thái độ khác hẳn, một thái độ nhân từ đầy yêu thương đối với mọi
người, được thể hiện một cách cụ thể trong việc Ngài chữa lành người mù. Ngài
sống và hành động vì tình yêu chứ không vì lề luật. Tình yêu và lòng thương xót
của Ngài đã thúc bách Ngài bất chấp luật sa-bát, bất chấp sự phản đối và bực
tức của người Pha-ri-siêu về việc lỗi luật của Ngài, bất chấp những hậu quả rất
bất lợi có thể xảy đến cho Ngài. Ngài sẵn sàng hy sinh bản thân để xoa dịu đau
khổ, để làm mọi người hạnh phúc.
Qua
dụ ngôn này, Ðức Giê-su muốn cho người Pha-ri-siêu thấy thái độ của họ đối với
dân chúng, với các tín đồ tôn giáo mà họ dẫn dắt chẳng khác gì thái độ của kẻ
trộm cướp, của kẻ chăn thuê đối với đàn chiên: chỉ muốn lợi dụng đàn chiên chứ
không hề yêu thương chúng. Còn thái độ của Ngài mới là thái độ người mục tử
đích thật: Ngài yêu thương đàn chiên đến nỗi sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên (Ga
10,11). Nhưng rất tiếc là họ không hiểu
những điều Người nói với họ.
3. Mục tử nhân lành (mục tử thật) và kẻ trộm cướp (mục tử giả)
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giê-su đưa ra một tiêu chuẩn để phân biệt mục tử và
kẻ trộm cướp. Mục tử thì đi vào ràn chiên bằng cửa ràn, nghĩa là với phong thái
đường đường chính chính. Còn kẻ
trộm hay kẻ cướp thì không qua cửa nhưng trèo qua lối khác mà vào, với phong
thái lén lút, giả dối, không đàng hoàng. Mà cửa ràn chiên, theo bài Tin Mừng
hôm nay, lại cũng chính là Ðức Giê-su: Tôi
bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Vậy để là mục tử đích
thật, người mục tử phải qua Ðức Giê-su mà đến với đàn chiên, nghĩa là phải là
người yêu mến Thiên Chúa, và phục vụ đàn chiên vì Ngài, không vì một động lực
nào khác.
Thật
vậy, đã là mục tử chân chính thì tư tưởng, lời nói, hành động lúc nào cũng phải
bộc lộ được tính quang minh chính đại,
hay đường đường chính chính, luôn
luôn thẳng thắn, trung thực, đáng tin. Người mục tử chân chính ít ra phải là
một người quân tử. Nếu tư tưởng,
lời nói và hành động như một kẻ tiểu nhân,
thích quanh co, lén lút, dối trá, sợ sự thật. thì không xứng đáng làm mục tử.
Hơn thế nữa, người mục tử chân chính phải có một tình yêu to tát, để có thể hy
sinh đến tận cùng cho những người mà mình lãnh đạo, hướng dẫn.
Ðương
nhiên để thực hiện ý định của mình, kẻ trộm cướp - những kẻ không có tình yêu
đối với chiên nhưng lại muốn hưởng những quyền lợi của người mục tử - phải giả
làm mục tử. Hắn tìm đủ mọi cách để chiên đi theo mình. Nhưng chiên không chịu theo người lạ, mà chạy trốn, vì chúng
không nhận biết tiếng người lạ, không cảm nhận được tình thương của
hắn. Vì mục tử giả hay kẻ chăn thuê chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, đến cái
lợi của mình, không nghĩ gì đến chiên, nên khi
thấy sói đến, hắn bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn
(Ga 10,12). Người mục tử đích thực thì yêu thương chiên, sống vì chiên, và sẵn
sàng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên
(Ga 10,11) để cho chiên được sống và sống
dồi dào (10,10).
4. Ðức Giê-su là mục tử tốt lành
Ngoài
mục đích đối chất với bọn Pha-ri-siêu, Ðức Giê-su còn dùng hình ảnh rất quen
thuộc ấy đối với người Do Thái để diễn tả sự yêu thương gắn bó giữa Ngài và
chúng ta, những kẻ theo Ngài. Như mục tử tốt lành yêu thương và chăm sóc chiên
mình thế nào, Ngài cũng yêu thương chăm sóc chúng ta như vậy. Ngôn sứ
Ê-dê-ki-en đã dùng hình ảnh người mục tử với đàn chiên để diễn tả tương quan
giữa Ðấng Mê-si-a và dân của Ngài: Ta sẽ cho
xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó là tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn
dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng (Ed 34,23). Ngài chính là
người mục tử được Thánh Vịnh mô tả: Chúa là
mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người
cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua
lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con
vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Ðầu con,
Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình
thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày
tháng, những năm dài triền miên (Tv 23).
Vì
thế, khi ý thức được Ðức Giê-su luôn chăm sóc mình như người mục tử tốt lành
chăm sóc đàn chiên, người Ki-tô hữu có thể hết sức an tâm trước tất cả mọi
giông tố, thử thách trong cuộc đời. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương vô
biên và chân thật của Ngài, và an tâm phó thác mọi sự cho Ngài, kể cả mạng
sống, hạnh phúc của mình. Nhờ đó cuộc đời ta luôn luôn bình an, vui tươi, hạnh
phúc, và Tin Mừng chúng ta rao giảng mới đúng là tin mừng đích thực (=tin thật sự đem lại vui mừng!)
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con nhận thức được tình thương vô
bờ và quyền năng vô biên của Cha, của Ðức Giê-su, để con có thể hoàn toàn tin
tưởng và phó thác mọi sự cho Cha, cho Ðức Giê-su. Nhờ đó, con luôn luôn bình
an, hạnh phúc bất chấp cuộc đời có sóng gió đến đâu. Vì con luôn luôn tin tưởng
rằng, con được một bàn tay quyền uy và yêu thương bảo vệ. Mọi biến cố xảy ra, dù
thế nào, cuối cùng đều ích lợi cho con. Amen.
Joan Nguyễn Chính Kết