Chúa Nhật Thứ 5 Mùa Chay
(17-3-2002)
ÐỌC LỜI CHÚA
Ed 37,12-14: (13) Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ÐỨC CHÚA khi Ta
mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. (14) Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các
ngươi sẽ được hồi sinh. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ÐỨC CHÚA,
Ta đã phán là Ta làm.
Rm 8,8-11: (11) Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của
Ðấng đã làm cho Ðức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giê-su
sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà
làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.
TIN MỪNG: Ga
11,3-7.17.20-27.33b-45
Anh La-da-rô sống lại
(3) Hai cô Mác-ta
và Ma-ri-a cho người đến nói với Ðức Giê-su: Thưa Thầy, người Thầy thương mến
đang bị đau nặng. (4) Nghe vậy, Ðức Giê-su bảo: Bệnh này không đến nỗi
chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này,
Con Thiên Chúa được tôn vinh.
(5) Ðức Giê-su quý mến cô Mác-ta,
cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô. (6) Tuy nhiên,
sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi
đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: Nào chúng ta
cùng trở lại miền Giu-đê!
(17) Khi đến nơi, Ðức Giê-su thấy anh
La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (20) Vừa được tin
Ðức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mác-ta nói
với Ðức Giê-su: Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ
con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy. (23) Ðức
Giê-su nói: Em chị sẽ sống lại! (24) Cô Mác-ta thưa: Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ
chết sống lại trong ngày sau hết.
(25) Ðức Giê-su liền
phán: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết,
cũng sẽ được sống. (26)
Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?
(27) Cô Mác-ta đáp: Thưa Thầy,
có. Con vẫn tin Thầy là Ðức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Ðấng phải đến thế gian.
(33b) Ðức Giê-su thổn thức trong lòng
và xao xuyến. (34) Người hỏi: Các người để xác anh ấy ở đâu? Họ trả lời: Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem. (35) Ðức Giê-su liền khóc. (36) Người Do-thái mới nói: Kìa xem! Ông ta thương anh
La-da-rô biết mấy! (37)
Có vài người trong nhóm họ nói: Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể
làm cho anh ấy khỏi chết ư? (38) Ðức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới
mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Ðức Giê-su nói: Ðem phiến đá này đi. Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: Thưa Thầy,
nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày. (40) Ðức Giê-su bảo: Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ
được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Ðức Giê-su ngước mắt
lên và nói: Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì
dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con. (43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!
(44) Người chết liền ra, chân tay
còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Ðức Giê-su bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy,
rồi để anh ấy đi.
(45) Trong số những người Do-thái đến
thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Ðức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào
Người.
SUY NIỆM
Câu hỏi gợi ý:
1. Ðức Giê-su đã làm cho La-da-rô sống lại, điều
đó chứng tỏ điều gì? Phải là ai mới có thể thực hiện được điều ấy?
2. Bạn còn nhớ nội dung các bài Tin Mừng Chúa
Nhật mùa Chay vừa qua không? Loạt bài Tin Mừng mùa Chay muốn chứng tỏ điều gì
về Ðức Giê-su?
3. Ðức Giê-su xúc động và khóc trước mộ La-da-rô
cho thấy tình yêu và tình cảm của Ngài thế nào? Ta có cần biểu lộ tình yêu của
mình đối với tha nhân một cách cụ thể như thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Ðức
Giê-su có khả năng làm cho kẻ chết sống lại
Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người bệnh nan y được khỏi bệnh
thì có khá nhiều người làm được. Nhưng làm cho người đã chết sống lại thì chỉ
những người có sứ mạng đặc biệt của Thiên Chúa mới thực hiện được nhờ quyền
năng vô biên của Ngài. Trong Cựu Ước ta thấy ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho con trai
của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (xem 1Vua 17,17-24), và ngôn sứ Ê-li-sa cũng
làm như thế cho đứa con trai của bà Su-nêm (xem 2Vua 4,32-37). Trong Tân Ước,
ngoài Ðức Giê-su ra, ta thấy có Phê-rô cũng đã làm cho bà Ta-bi-tha đã chết
sống lại (xem Cv 9,39-42). Còn Ðức Giê-su, Ngài đã làm cho người chết sống lại
ít nhất 3 lần: cho con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,11-15), cho con gái một
ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho La-da-rô
như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại (x. Ga 11,34-45).
Nơi những trường hợp được hồi sinh vừa kể, việc sống lại - hầu tiếp tục
sự sống ở trần gian ít lâu nữa để rồi cũng lại chết - chỉ là một hình ảnh hay
dấu chỉ của sự sống lại vĩnh viễn để sống sự sống đời đời. Sự sống lại để sống
đời đời này chính Ðức Giê-su đã thực hiện cho chính mình (x. Mt 28,1-8; Mc
16,1-8; Lc 24,1-7; Ga 20,1-10). Ðó chính là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào
sự sống lại của chính chúng ta để hưởng sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, nếu Ðức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao
giảng của chúng ta là vô ích (1 Cr 15,14), là
hoàn toàn vô căn cứ, không dựa trên một nền tảng nào. Và việc phục sinh của
Ngài cũng chính là bằng chứng để ta tin Ngài là Con Thiên Chúa, đồng thời cũng
là Thiên Chúa. Vì trong lịch sử nhân loại, sống lại để sống vĩnh cửu như thế -
nghĩa là hiện nay, sau 2000 năm, Ngài vẫn đang sống, và sẽ còn sống mãi - thì
chỉ có một mình Ðức Giê-su mà thôi.
2. Ðức
Giê-su chính là Con Thiên Chúa, là Ðấng Mê-si-a, và cũng là con người như chúng
ta
Các bài Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay muốn chứng tỏ Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ngài chính là Ðấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã hứa, mà người Do Thái trông chờ hàng mấy trăm năm.
Việc Ðức Giê-su chịu cám dỗ (Chúa Nhật thứ 1 mùa Chay) cho thấy Ðức
Giê-su là người đích thực, Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối của con người.
Việc Ðức Giê-su hiển dung (CN 2 mùa Chay) cho thấy thần tính của Ngài, cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa, được chính Chúa Cha giới thiệu.
Câu chuyện về nước hằng sống với người phụ nữ Sa-ma-ri (CN 3 mùa Chay)
cho thấy Ngài có khả năng đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người, và Ngài tự
xác nhận mình là đấng Mê-si-a mà mọi người trông đợi.
Việc làm sáng mắt người mù từ khi mới sinh (CN 4 mùa Chay) cho thấy
quyền năng đặc biệt của Ngài và cách Ngài hành xử theo tình yêu hơn là theo lề
luật.
Quyền năng ấy lại còn đặc biệt hơn nữa với bài tường thuật Ngài làm cho kẻ chết đã 4 ngày sống lại trong bài Tin Mừng hôm nay (CN 5 mùa Chay). Trong bài Tin Mừng này, Ngài còn tự xác nhận mình chính là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ngài thì sẽ được
sự sống đời đời.
Cuối cùng, Chúa Nhật kế tiếp (CN Phục Sinh) thuật lại việc sống lại của
chính Ngài sau khi chịu tử nạn làm hy tế đền tội cho nhân loại. Sự sống lại này
là dấu chứng vĩ đại và chắc chắn nhất chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Ðấng
Mê-si-a.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh một cách tổng hợp Ngài vừa là Thiên
Chúa vừa là con người, một con người đúng là con người, hết sức nhân bản. Ngài
là Thiên Chúa, vì có khả năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người, vì khi
đến nhà người mình yêu thương đã chết, Ngài cũng thổn thức trong lòng và xao xuyến (câu 33b), Ngài đã khóc
(câu 35) khi đứng trước mộ La-da-rô. Chắc hẳn Ngài đã tỏ ra xúc động rất nhiều
đến nỗi những người có mặt ở đấy đã phải thốt lên: Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy! (câu 36).
Như vậy, Ngài không chỉ yêu thương chúng ta bằng thứ tình yêu đầy tính
thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người
của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, rộng rãi,
và triệt để: Người vẫn yêu thương những kẻ
thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga
13,1b). Ðến cùng ở đây là tới mức
tận cùng của tình yêu con người, không ai - kể cả Ngài - có thể yêu hơn được
nữa: Không có tình thương nào cao cả hơn
tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga
15,13).
3. Hãy yêu
thương như Ðức Giê-su đã yêu thương
Ðức Giê-su đã yêu thương ta và yêu thương mọi người bằng trái tim con
người thế nào, Ngài cũng mời gọi ta yêu thương nhau, yêu thương tha nhân y như
vậy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em (Ga 15,12). Có yêu thương như thế, ta mới chứng tỏ
mình theo Ngài: Mọi người sẽ nhận biết anh
em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau
(Ga 13,35).
Tình yêu nhân bản của Ðức Giê-su được biểu lộ ra bên ngoài bằng sự xúc động mãnh liệt như trường hợp đối với La-da-rô, nhất là bằng những hy sinh đến chết cho nhân loại. Tình yêu tuy ẩn sâu kín trong lòng con người không ai thấy được, nhưng nếu là tình yêu đích thực thì nó luôn luôn được biểu lộ ra ngoài thành những ánh mắt trìu mến, cử chỉ yêu thương, lời nói dịu dàng, và nhất là bằng sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho người mình yêu. Tình yêu không thể dấu kín. Tình yêu dấu kín trong lòng là tình yêu đáng nghi ngờ. Nếu đức tin không có hành động là đức tin chết (Gc 2,17.26), thì một cách tương tự, tình yêu không được biểu lộ cụ thể là tình yêu giả hiệu. Chính Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại (Tt 3,4), và Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống (1Ga 4,9). Vì thế, chúng ta hãy biểu lộ tình yêu của mình đối với mọi người bằng những cử chỉ, lời nói và hành động cụ thể.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã tỏ tình yêu của Cha một cách
cụ thể cho nhân loại qua việc sai Ðức Giê-su là hiện thân của Cha đến thế gian
chịu chết để cứu chuộc họ. Ðức Giê-su cũng biểu lộ tình yêu của Ngài một cách
rất cụ thể qua việc khóc thương La-da-rô, và qua việc hiến mình đến chết cho
nhân loại. Xin giúp con cũng biết thật sự yêu thương những người chung quanh
con, và biểu lộ tình yêu thương ấy thật cụ thể qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói và
hành động. Amen.
Joan Nguyễn Chính Kết