Chúa Nhật Lễ Lá
(24-3-2002)
Mt 21,1-11: (9)
Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy : Hoan hô Con vua
Ða-vít ! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa ! Hoan hô trên các tầng
trời. (10) Khi Ðức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau : Ông này là
ai vậy ? (11) Dân
chúng trả lời : Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy.
Is 50,4-7: (6)
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã
không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
Pl 2,6-11: (8)
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
thập tự.
TIN MỪNG: Mt 27,11-54 (Bài
thương khó)
Ðức Giê-su ra trước toà tổng
trấn Phi-la-tô
(11) Ðức Giê-su
bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: Ông là vua dân Do-thái
sao? Ðức Giê-su trả lời: Chính ngài nói đó. (12) Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời
một tiếng. (13) Bấy
giờ ông Phi-la-tô hỏi Người: Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống
lại ông đó sao? (14)
Nhưng Ðức Giê-su không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi
ngạc nhiên.
(15) Vào mỗi dịp
lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý họ muốn. (16) Mà khi ấy
có một người tù khét tiếng, tên là Ba-ra-ba. (17) Vậy khi đám
đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Phi-la-tô nói với họ: Các ngươi muốn ta phóng
thích ai cho các ngươi đây? Ba-ra-ba hay Giê-su, cũng gọi là Ki-tô? (18) Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.
(19) Lúc tổng
trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: Ông đừng nhúng tay
vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ
nhiều vì ông ấy.
(20) Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Ba-ra-ba mà giết Ðức Giê-su. (21) Tổng trấn hỏi họ: Trong hai người này, các người muốn ta tha ai cho các người? Họ thưa: Ba-ra-ba! (22) Tổng trấn Phi-la-tô nói tiếp: Thế còn ông Giê-su, cũng gọi là Ki-tô, ta sẽ làm gì đây? Mọi người đồng thanh: Ðóng đinh nó vào thập giá! (23) Tổng trấn lại nói: Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác? Họ càng la to: Ðóng đinh nó vào thập giá! (24) Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy! (25) Toàn dân đáp lại: Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi! (26) Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Ba-ra-ba cho họ, còn Ðức Giê-su, thì ông truyền đánh đòn, rồi trao cho họ đóng đinh vào thập giá.
Ðức Giê-su phải đội vòng gai
(27) Bấy giờ
lính của tổng trấn đem Ðức Giê-su vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh
Người. (28) Chúng lột
áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ, (29) rồi kết một
vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây
sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: Vạn tuế Ðức Vua dân Do-thái! (30) Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập
vào đầu Người. (31)
Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi
điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.
Ðức Giê-su chịu đóng đinh vào
thập giá
(32) Ðang đi ra,
thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của
Người. (33) Khi đến nơi
gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Ðồi Sọ, (34) chúng cho
Người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà không chịu uống. (35) Ðóng đinh
Người vào thập giá xong, chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau. (36) Rồi chúng
ngồi đó mà canh giữ Người.
(37) Phía trên
đầu Người, chúng đặt bản án xử tội viết rằng: Người này là Giê-su, vua dân
Do-thái. (38) Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một tên bên phải, một
tên bên trái.
Ðức Giê-su bị nhục mạ
(39) Kẻ qua
người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu (40) vừa nói: Mi
là kẻ phá được Ðền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi!
Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào! (41) Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người
mà nói: (42) Hắn cứu
được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập
giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! (43) Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn
đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa!
(44) Cả những tên cướp cùng bị
đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
Ðức Giê-su trút linh hồn
(45) Từ giờ thứ
sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. (46) Vào giờ thứ
chín, Ðức Giê-su kêu lớn tiếng: Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni , nghĩa là Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?
(47) Nghe vậy, một vài người đứng
đó liền nói: Hắn ta gọi ông Ê-li-a! (48) Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt
biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. (49) Còn những người khác lại bảo: Khoan đã, để xem ông
Ê-li-a có đến cứu hắn không! (50) Ðức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
(51) Ngay lúc
đó, bức màn trướng trong Ðền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Ðất rung đá
vỡ. (52) Mồ mả bật
tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. (53) Sau khi
Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều
người. (54) Thấy động
đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ
Ðức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong thâm tâm, các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Phi-la-tô
có nhìn nhận Ðức Giê-su là vô tội không? Tại sao họ lại kết án Ngài?
2. Phi-la-tô rửa tay để làm gì? Ông muốn chứng tỏ điều gì? Có thật
là ông vô can trong việc đổ máu Ðức Giê-su không?
3. Trong đời sống thường ngày, chúng ta có hành động theo kiểu
các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Phi-la-tô không?
1. Ðức Giê-su bị án tử hình, dù ai cũng nhận thấy Ngài vô tội
Cả cuộc đời Ðức Giê-su, Ngài
không làm một điều gì nên tội, nhưng Ngài đã bị kết án ở mức độ nặng nhất: tử
hình. Lý do chính khiến Ngài bị kết án chính là sự ganh ghét của giới lãnh đạo
tôn giáo (x. Mt 27,18), và sự hèn nhát của cơ quan công quyền mà đại diện là
Phi-la-tô. Giới lãnh đạo tôn giáo biết Ngài vô tội: Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Ðồng tìm chứng gian buộc tội Ðức
Giê-su để lên án tử hình. Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra
làm chứng gian (Mt 26,59-60). Nhưng họ quyết tâm giết Ngài vì Ngài
được dân chúng mến phục và ủng hộ: việc đón rước Ngài vào thành long trọng
chứng tỏ điều ấy. Dân chúng còn đánh giá giáo huấn của Ngài cao hơn của họ: Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì
Người giảng dạy như một Ðấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư
(Mc 1,22). Ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng ngày càng lớn, lấn át ảnh hưởng
của họ, và họ cảm thấy điều ấy rất nguy hiểm cho chiếc ghế cũng như quyền lợi của họ. Vì thế, để tự bảo vệ,
họ quyết tâm giết Ngài, vì Ngài, mặc dù chẳng làm chi sai trái, đã trở thành
đối thủ rất nguy hiểm của họ.
Họ muốn giết Ngài, nhưng họ
không thể tự ý làm điều ấy, vì làm như thế họ sẽ bị chính quyền truy tố trước
pháp luật. Họ đã khôn ngoan bằng cách dùng chính tay chính quyền để giết Ngài.
Và họ đã thành công. Phi-la-tô - kẻ đại diện cho công lý, pháp quyền của đế
quốc Rô-ma - biết Ngài vô tội: ông thừa biết
chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người (Mt 26,27). Nhưng ông hèn nhát không
dám tha Ngài vì sợ quần chúng đang bị giới lãnh đạo tôn giáo sách động. Ông lo
sợ nguy hiểm cho chiếc ghế của
mình, và ông đã chủ trương thà bảo vệ chiếc
ghế hơn bảo vệ công lý.
Ðiều đó cũng có thể thông cảm được với một người ngoại giáo như ông, vốn không được giáo dục tâm linh như các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng điều đáng ghê tởm là sự thiếu thẳng thắn và giả hình của ông: ông lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!. Ông là đại diện cho công lý mà không chịu lên tiếng bênh vực công lý, để cho công lý bị chà đạp. Tội của ông rành rành ra đấy: đồng loã với sự ác để giết một người vô tội, nhưng ông lại muốn được mọi người coi là vô tội. Ông muốn biện minh cho hành động vô trách nhiệm của mình. Thật ra, cứ nhận rằng mình hèn nhát, mình ham địa vị thì lại đỡ tội, nhưng ông lại còn muốn tỏ ra mình vô tội, nên tội ông nặng lên rất nhiều. Tương tự như ý nghĩa của câu: Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng : "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn! (Ga 9,41). Trước mặt Thiên Chúa, chính cái tội giả hình, muốn tỏ ra mình vô tội ấy còn nặng hơn tội hèn nhát và vô trách nhiệm kia rất nhiều. Khi tôi còn nhỏ, hễ tôi phạm một lỗi nào, cha tôi chỉ đánh một hai roi, nhưng nếu đã phạm mà lại chối, thì lỗi nặng lên gấp hai ba lần, có thể bị phạt tới 5 hay 10 roi, vì đã phạm tới hai lỗi, mà lỗi sau nặng hơn rất nhiều.
2. Ta có hành động như Phi-la-tô hay các tư tế không?
Thấy người lại nghĩ đến ta. Ta
thấy Ðức Giê-su đã bị giết bởi giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái vì lòng ganh tị
của họ và bởi Phi-la-tô vì sự hèn nhát của ông. Nhưng liệu ta có hành động như
thế đối với các ngôn sứ đồng thời với mình không? Có thể ta sẽ nói như bọn kinh
sư ngày xưa: Nếu như chúng ta sống vào thời
của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn
sứ (Mt 23,29). Nhưng họ có ngờ đâu họ lại phạm chính tội mà tổ tiên
họ đã phạm, cái tội mà họ đang dựa vào để chê trách tổ tiên. Và họ còn phạm
nặng nề hơn tổ tiên họ rất nhiều, vì họ giết chính Ðấng Mê-si-a mà họ đang
trông chờ. Tại sao? Chỉ vì cái mối tội muốn
bảo vệ cái ghế của mình hơn bảo
vệ công lý, mối tội ấy họ cũng có không kém gì cha ông mình. Và cái
mối tội thứ hai còn lớn hơn thế nữa là đã có
tội, lại còn muốn chứng minh mình vô tội. Khi muốn chứng minh mình
vô tội, hay muốn biện minh cho tội của mình, người ta dễ có khuynh hướng tìm
cho ra một tội nào đấy để gán ghép cho kẻ vô tội mà mình không muốn bênh vực,
hầu chứng tỏ sự im lặng hay kết án của mình là hợp lý.
Rất có thể ta cũng đang hành
động như thế trong đời sống thường ngày của ta. Nhiệm vụ làm chứng - tức chức
năng ngôn sứ - mà ta đã lãnh nhận khi lãnh bí tích rửa tội, thêm sức, hoặc
truyền chức đòi buộc ta phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và
tình thương. Nhiệm vụ hay chức năng ấy đòi hỏi ta phải sống đúng điều mình chủ
trương và rao giảng. Ta rao giảng rằng những thực tại siêu nhiên, những giá trị
tâm linh cao quí hơn những thực tại trần gian, thậm chí hơn cả mạng sống: Ðược cả thế giới mà mất linh hồn thì ích lợi gì?
(Mt 16,26). Nhưng trong đời sống thực tế, qua hành động và cách sống của ta, ta
lại đích thực coi những thực tại trần gian cao quí hơn những thực tại mà ta vô
cùng đề cao khi rao giảng. Ta sẵn sàng hy sinh những giá trị tâm linh để đổi
lấy những thực tại cụ thể của trần gian: tiền bạc, quyền lực, địa vị, lạc thú.
Ðể bảo vệ những thứ ấy, ta sẵn sàng phạm chính cái tội của các vị lãnh đạo tôn
giáo Do Thái sẵn sàng hãm hại hoặc giết những
Ðức Ki-tô trong chính thời đại của chúng ta, hoặc của Phi-la-tô xưa
đã im lặng đồng lõa để người vô tội bị hãm hại. Những Ðức Ki-tô ấy có thể là những kẻ thấp cổ bé miệng đang
chịu đủ thứ bất công trong xã hội cũng như Giáo Hội, có thể là những người công
chính mà sự có mặt hay hành động của họ đang ảnh hưởng bất lợi cho cái ghế của ta.
Nếu nhận ra mình đang lỗi bổn
phận làm chứng theo chức năng ngôn sứ của người Ki-tô hữu, ta hãy thành
thực nhận lỗi của mình và tìm cách sửa chữa. Không nên làm như Phi-la-tô, đã có
tội lại còn muốn chứng tỏ mình vô tội, khiến ta lại càng lún sâu hơn vào tội
lỗi hơn.
Lạy Cha, con là người yếu
đuối, con rất dễ trở nên hèn nhát. Ðiều đó chắc hẳn Cha, cũng như Ðức Giê-su,
rất dễ cảm thông và tha thứ cho con. Nhưng xin đừng để con hành động như
Phi-la-tô, đã hèn nhát không dám bênh vực người vô tội, để mặc người vô tội bị
giết, lại còn rửa tay để chứng tỏ mình vô tội. Xin đừng để con mắc tội giả hình
như thế, là tội mà Ðức Giê-su ghét hơn tất cả mọi thứ tội. Amen.