CHÚA NHẬT 2 QUANH NĂM

 

Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:         1 Cô-rin-tô 1: 1-3

          Trong các Thư thuộc Tân Ước, thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô được sử dụng nhiều nhất, 19 Chúa Nhật thuộc ba chu kỳ Phụng vụ Lời Chúa mùa thường niên. Riêng năm A, từ Chúa Nhật 2 đến 8, các bài đọc Tân Ước trích dẫn 1 Cr 1:10-4:21. Vậy để hiểu được tầm quan trọng của chủ đề giáo lý trong đoạn thư này, chúng ta thử xem thánh Phao-lô muốn nhắm điều gì trong đó.

          Vấn đề chính được đề cập đến trong 1 Cr 1:10-4:21 là tình trạng chia rẽ và phe phái trong giáo đoàn Cô-rin-tô. Do đó, Phao-lô muốn giúp cho những tín hữu tân tòng của ngài đừng rơi vào nạn phe phái nếu họ cứ bám lấy một vị tông đồ nào đó, có thể là Phê-rô, hoặc A-pô-lô hay chính ngài. Vậy ngài trình bày như sau:

Ðức Ki-tô chịu đóng đinh chính là kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa. Như thế, những gì thế gian cho là điên rồ và yếu kém (tức là sự kiện Chúa Ki-tô bị đóng đinh) thì đó lại là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngược lại, những gì thế gian cho là khôn ngoan thì đối với Thiên Chúa lại là yếu kém và điên rồ. Ðể chứng minh chân lý này, Phao-lô trưng dẫn việc Thiên Chúa tuyển chọn tín hữu Cô-rin-tô. Người tuyển chọn họ không phải vì họ khôn ngoan hay quyền quý, nhưng vì Người muốn chọn người yếu để đánh bại kẻ mạnh. Thánh Phao-lô cũng trưng dẫn trường hợp của chính ngài. Ngài đến hoạt động truyền giáo tại Cô-rin-tô không phải như một nhà hùng biện, nhưng ngài "thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy." Sức mạnh của sứ vụ ngài là hoàn toàn do Thiên Chúa chứ không phải do nơi ngài. Cho nên, vấn đề là nếu tín hữu Cô-rin-tô hiểu được nghịch lý của thập giá chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, thì họ sẽ ý thức được rằng những người rao giảng Tin Mừng không phải là những người thuộc về họ, sở hữu của họ. Nói khác đi, cá nhân vị tông đồ không có gì là quan trọng, nhưng quan trọng chính là Thiên Chúa, Ðấng sai các tông đồ đi rao giảng sứ điệp nghịch lý về Chúa Ki-tô chịu đóng đinh. Nếu hiểu được như vậy, họ sẽ vui chịu đau khổ và nhạo cười của thế gian, giống như các tông đồ đang chịu hằng ngày vì Tin Mừng. Bám víu vào một mình Chúa, họ sẽ hóa giải được tất cả những động lực, lý do tạo lập phe phái và gây chia rẽ cộng đoàn.

Sau khi đã hiểu được hoàn cảnh giáo đoàn Cô-rin-tô và mạch văn của đoạn thư 1 Cr 1:10-4:21, chúng ta có thể nhận ra ý nghĩa của lời chào thăm thánh Phao-lô viết cho tín hữu Cô-rin-tô ở đầu bức thư thứ nhất của ngài.

Khi viết thư này, chắc chắn ưu tư của thánh Phao-lô là làm thế nào tận diệt được tình trạng phe phái chia rẽ tại Cô-rin-tô. Với lời chào thăm, tuy ngắn gọn, nhưng Phao-lô muốn đi thẳng vào tận gốc vấn đề, vào nguyên nhân sâu xa nhất của lý do gây bè phái chia rẽ. Nguyên do sâu xa nhất của mọi thứ phe phái chia rẽ là vì:

- Mỗi phần tử không hiểu rõ căn tính đích thực của mình, và

- Không biết rõ căn tính của cộng đồng mình đang thuộc về.

Vậy thánh Phao-lô đã muốn nói đến hai nguyên nhân này trong lời chào thăm, khi ngài gọi giáo đoàn Cô-rin-tô là "Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô" và anh chị em tín hữu Cô-rin-tô là "những người được hiến thánh trong Ðức Ki-tô Giê-su, được gọi là thánh." Xưng hô như thế, ngài nhắc nhở tín hữu Cô-rin-tô hãy nhìn nhận lại căn tính của mình và của giáo đoàn.

Khi suy nghĩ về căn tính của mình, thánh Phao-lô viết là ngài "được gọi làm tông đồ của Ðức Ki-tô Giê-su." Với Phao-lô, làm tông đồ là một ơn gọi, chứ không phải bởi hiếu động hay vụ lợi. Ngài còn coi ơn gọi làm tông đồ như là điều do Thiên Chúa tiền định (Gl 1:15). Ðể đáp lại hồng ân ấy, Phao-lô đã bất chấp mọi khó khăn và sẵn sàng hy sinh mạng sống để rao giảng Tin Mừng cho Dân ngoại, vì "tình yêu Ðức Ki-tô thôi thúc" (2 Cr 5:14).

Nói về căn tính của Ki-tô hữu, Phao-lô coi họ là những người được hiến thánh. Gọi họ là "thánh", dĩ nhiên ngài không có ý nói họ đã là những người hoàn hảo, nhưng ngài muốn ám chỉ phẩm giá cao quý của họ vì đã được Thiên Chúa tuyển chọn và làm con cái Thiên Chúa, đồng thời vì họ được tham dự vào Hội Thánh là một tổ chức thánh thiện.

Khi định nghĩa "giáo đoàn Cô-rin-tô" là "Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô", thánh Phao-lô muốn nói lên điều giáo lý này: Hội Thánh thực sự nhập thế, đâm rễ ở địa phương; nhưng dù bất cứ ở đâu, vẫn là Hội Thánh của Thiên Chúa (xem chú thích c) ở chương 1, Thư 1 Cô-rin-tô, bản dịch Nhóm Phiên dịch PVGK). Như thế chúng ta thấy thực là tức cười khi nghe nói: tôi đi lễ ở nhà thờ cha A, nhà thờ cha B... Chẳng khác gì tín hữu Cô-rin-tô ngày xưa: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha..." Tuy là nói theo thói quen, nhưng có lẽ nó phản ảnh một cái nhìn thiếu sót về Hội Thánh!

Nếu hiểu rõ căn tính Ki-tô hữu của mình và căn tính của cộng đoàn mình, lấy Ðức Ki-tô làm tâm điểm, chúng ta sẽ tránh được não trạng và thảm cảnh phe phái kình chống nhau trong cùng một cộng đoàn hay một giáo xứ.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Chia sẻ một vài kinh nghiệm về phe phái, chia rẽ trong cộng đoàn của tôi. Tôi rút được bài học gì?

          Cách hiểu của thánh Phao-lô về "Ki-tô hữu là ai?" và "Giáo đoàn Cô-rin-tô là gì?" hoặc "Giáo xứ là gì?"sẽ giúp tôi thay đổi cái nhìn về tôi, về anh chị em và về Giáo Hội như thế nào?

          Nhóm và tôi có thể làm gì để làm bớt đi những chia rẽ, nghi kỵ, ganh ghét trong nhóm, hội đoàn, giáo xứ?

Cầu nguyện kết thúc

          Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát bài "Ở đâu có bác ái và thương mến", hoặc "Xin hiệp nhất chúng con..."

Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi