Chúa Nhật thứ 4
Thường Niên
(3-2-2002)
Ðọc Lời
Chúa
Xp 2,3.3,12-13: (12) Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé
nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh ÐỨC CHÚA. (13) Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn
ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh
gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp
sợ.
1Cr 1,26-31: (26) Khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu
có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người
quý phái. (27) Song
những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ
khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ
nhục những kẻ hùng mạnh; (28) những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên
Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, (29) hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt
Người.
TIN MỪNG: Mt 5,1-12a
Tám mối Phúc (// Lc 6,20-23)
(1) Thấy đám đông, Ðức Giê-su lên
núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. (2) Người mở
miệng dạy họ rằng: (3) Phúc thay ai có tâm hồn nghèo
khó, vì Nước Trời là của họ. (4) Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ
được Ðất Hứa làm gia nghiệp. (5) Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ
được Thiên Chúa ủi an. (6) Phúc thay ai khát khao nên người
công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. (7) Phúc thay ai
xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. (8) Phúc thay ai
có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. (9) Phúc thay ai
xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. (10) Phúc thay ai
bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. (11) Phúc thay anh
em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. (12) Anh em hãy
vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn biết gì về luật nhân quả? Kinh Thánh có
nói gì về luật này không? Xin đưa ra một vài câu điển hình.
2. Có một món tiền lớn, nhưng nếu cứ tiêu hoài
thì cũng hết và trở thành nghèo. Bạn có cách nào để tiêu hoài không hết, mà lại
có nhiều hơn nữa không?
3. Tinh thần chung chung của tám mối phúc là gì?
có thể tóm gọn lại cả tám mối ấy trong một mối duy nhất không? mối ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Luật nhân quả
Trên đời, có một định luật phổ biến mà bất cứ ai, bất cứ tôn giáo hay
nền văn hóa nào cũng phải công nhận, đó là luật nhân quả. Luật nhân quả được phát biểu
như sau: Bất cứ một sự việc, biến cố nào
cũng đều phải có nguyên nhân sinh ra nó, và chính nó lại là nguyên nhân phát
sinh một hậu quả nào đó. Có thể phát biểu một cách khác như: Không một sự việc hay biến cố nào xảy ra mà không có
nguyên nhân, mà không tạo nên một hậu quả nào đó. Tương quan giữa
nhân và quả là nhân nào quả nấy:
nhân xấu thì quả xấu, nhân tốt thì quả tốt.
Trong Tin Mừng, Ðức Giê-su đã nói về định luật nhân quả qua những câu
như: Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu
thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể
sinh quả tốt (Mt 7,17-18), Tất cả
những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm (Mt 26,52), Cựu Ước cũng có những
câu như: Kẻ nào ăn nho xanh, kẻ ấy sẽ bị ghê
răng (Gr 31,30), Ðời cha ăn nho
xanh, đời con phải ê răng (Ed 18,2). Trong những câu này, nhân và
quả tương ứng với nhau.
Nhưng Thánh Kinh còn cho biết giữa nhân và quả cũng có sự đối nghịch
nhau: Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn
ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên (Mt 23,12), hay Gieo trong đau thương sẽ gặt giữa vui mừng; đi khóc
lóc u sầu sẽ về giữa muôn lời ca (Tv 126,5-6).
Bài Tin Mừng hôm nay là một ứng dụng khôn ngoan và phong phú của định
luật nhân quả.
2. Tám mối phúc thật
Có một số tiền, ta có thể sử dụng nó theo hai cách căn bản:
- một là lấy chính số tiền ấy
để mua món này vật kia cho đến hết. Và khi hết thì ta lại lâm vào cảnh túng
thiếu, khổ sở. Vì thế, người tiêu hoang thì chóng nghèo hơn người biết tiết
kiệm. Nhưng dù món tiền lớn đến đâu, dù ta tiêu tiết kiệm hoặc hà tiện đến mức
nào, thì tiền tiêu hoài cũng có lúc hết: Miệng
ăn, núi lở.
- hai là đem số tiền ấy ra kinh
doanh, để tiền lại làm ra tiền, nhờ vậy, mình tiêu hoài không hết. Nhưng đem
tiền ra kinh doanh có nghĩa là phải tiêu số tiền đó vào một việc gì đó ích lợi
cho người khác, nhằm phục vụ lợi ích người khác chứ không phải lợi ích của
mình. Người khác có cảm thấy họ được phục vụ tốt thì họ mới cần tới mình, cần
tới món hàng mình. Như vậy, mình hành động vì lợi ích của người khác mà cuối
cùng mình lại có lợi, và cái lợi này mới thật sự lâu bền. Nhiều người kinh
doanh chẳng những có tiền tiêu hoài, mà còn trở nên giàu có tột bậc.
So sánh hai cách tiêu tiền ấy, thì cách thứ hai khôn ngoan và có lợi
cho mình hơn rất nhiều. Ðó chỉ là một minh họa nghèo nàn dẫn chúng ta vào sự
khôn ngoan của tám mối phúc mà
Ðức Giê-su giới thiệu cho ta. Hai cách tiêu tiền ấy tương ứng với hai cách
sống: sống ích kỷ và sống yêu thương. Sống ích kỷ thì có lợi trước mắt, nhưng
xét theo lâu dài thì rất bất lợi. Sống yêu thương là làm cho người khác hạnh
phúc, trước mắt thì mình bị thiệt hại, đau khổ; nhưng xét theo lâu dài thì nó
đem lại hạnh phúc cho mình gấp bội cách sống ích kỷ. Như thế, ta thấy ích kỷ
lợi một và ngắn hạn, còn vị tha hay yêu thương thì lợi mười và lâu dài. Sự lâu
dài này không có nghĩa là cứ phải qua đời sau mới nhận được lợi ích của nó, mà
trong đa số trường hợp là được hưởng ở ngay đời này.
a. Mối phúc căn bản: sống nghèo vì người khác
Mối phúc thứ nhất là sống nghèo vì người khác. Phải sống nghèo cho người khác thì
mới là phúc thật. Còn sống nghèo khó hầu cho số tiền mình để dành ngày càng
nhiều lên thì đó là hà tiện chứ
không phải là sống nghèo khó theo Tin Mừng. Rất nhiều người hiểu lầm về đức khó
nghèo. Họ tưởng họ có nhân đức khó nghèo khi họ tiêu xài một cách hà tiện, sống
y như một người nghèo. Nhưng số tiền đáng lẽ phải chi mà không chi, thay vì giúp
ích cho một ai đó nghèo hơn thì họ lại cất đi, khiến họ càng có nhiều tiền
trong kho hay nhà băng hơn. Khó nghèo như thế thì nào có giúp ích gì cho ai?
Thậm chí còn làm cho người nghèo nghèo hơn, vì của cải tập trung vào kho của
những người hà tiện như thế.
Cái nghèo mà Ðức Giê-su muốn nói đến, là nghèo vì yêu thương tha nhân.
Nghèo vì cho đi, vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là
đức khó
nghèo. Vì thế, giữa đức khó nghèo và đức bác ái có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái.
Khó nghèo là một phương tiện cụ thể để thực thi bác ái. Khó nghèo mà không vì
đức ái thì trở thành hà tiện, là một trong bảy mối tội.
Khó nghèo không hẳn chỉ là do bố thí. Dùng rất nhiều thì giờ để lao
động tay chân hay trí óc hầu phục vụ một nhu cầu nào đó của tha nhân, của Giáo
Hội hay xã hội thay vì dùng thì giờ đó để làm việc khác có kinh tế hơn, thì đó
chính là thực hành đức khó nghèo, mặc dù trong thực tế người ấy vẫn có thể giàu
có. Còn người nghèo mà muốn tận dụng hết thì giờ để lo kiếm tiền, không bao giờ
muốn hy sinh một giây phút nào để làm việc cho người khác, thì người ấy chẳng
thực hiện đức khó
nghèo một chút nào, dù rằng người ấy rất nghèo.
Vậy có thể nói: tâm hồn khó nghèo của Tin Mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp
nhận mất mát (thì giờ, vật chất, sức lực, của cải, sự quan tâm) vì yêu thương
tha nhân, để mưu hạnh phúc hay ích lợi cho họ. Một người có tinh thần phục vụ
cao, dám thật sự hy sinh cho tha nhân như vậy chắc chắn sẽ được mọi người quí
trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao cho những trọng trách trong xã hội
hay Giáo Hội, nên có địa vị cao, vì thế có thể có một đời sống đầy đủ cả về
tinh thần lẫn vật chất. Một người như vậy thì tình yêu hay Nước Trời ở ngay
trong lòng họ: tinh thần họ luôn luôn bình an và tràn đầy niềm vui vì đã làm cho
những người chung quanh được hạnh phúc. Họ có thể được hạnh phúc cả đời này lẫn
đời sau.
Ta có thể hiểu những mối phúc khác một cách tương tự như thế.
b. Cả tám mối phúc đều là hệ luận của một mối phúc căn bản
Mối phúc căn bản là sống vị tha: nghĩa là thật sự sống vì Chúa, vì tha
nhân, sẵn sàng chịu thiệt hại, mất mát, đau khổ vì lợi ích hay hạnh phúc của
tha nhân. Như đã nói trên, sống như thế cũng giống như đem tiền ra đầu tư, đem
hạt giống ra gieo, tuy trước mắt là mất mát, thiệt thòi, nhưng cuối cùng mình
lại gặt hái nhiều hơn gấp bội.
Tất cả các mối phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là
quả; vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác,
vế thứ hai là người khác vì mình; vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh
phúc. Tất cả các mệnh đề trong vế thứ nhất đều phải hiểu ngầm mấy chữ này: vì Chúa, vì tha nhân, nghĩa là nghèo vì
tha nhân, hiền lành vì tha nhân, sầu khổ vì tha nhân, v.v. Nếu không do tự
nguyện vì Chúa, vì tha nhân, thì sự nghèo, sự hiền lành, nỗi sầu khổ. ta phải
chịu đều là tai họa chứ không phải là phúc đức.
c. Chứng nghiệm:
Kinh
nghiệm trong cuộc đời cho ta thấy: những người có tâm hồn ích kỷ, suốt ngày chỉ
nghĩ tới mình, tới hạnh phúc hay đau khổ của mình, đều là những người đau khổ
nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc
và đau khổ của người khác, không còn thì giờ để nghĩ đến mình, thì những người
ấy thường luôn luôn hạnh phúc, thoải mái trong tâm hồn, và thành công trong
cuộc đời. Người Ki-tô hữu phải tập cho được thói quen sống vì Chúa, vì tha
nhân, và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người chung quanh mình (vợ chồng, con
cái, người thân, bạn bè) được hạnh phúc. Sống như thế, bảo đảm ta sẽ được hạnh
phúc ngay đời này, và chắc chắn cả đời sau nữa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, luật nhân quả là do Cha dựng nên, là
thánh ý của Cha. Xin cho con biết sống khôn ngoan, biết lợi dụng luật ấy để đem
lại hạnh phúc lâu dài cho mình. Ðức Giê-su đã chỉ cho con biết cách để được
hạnh phúc lâu dài qua tám mối phúc thật. Ðó là biết sống hoàn toàn vì Thiên
Chúa và tha nhân. Sống như thế là cách sống khôn ngoan nhất, đem lại hạnh phúc
cho con ngay ở đời này, mà còn bảo đảm cho con hạnh phúc đời sau nữa. Amen.
Joan Nguyễn Chính Kết