Chương năm
đỂ anh em sinh nhiỀu hoa trái
Việc huấn luyện giáo dân
Luôn đạt đến sự trưởng thành hơn
1.
Hình ảnh
trong Tin Mừng về cây nho và các cành nho cho chúng ta thấy một khía cạnh nền
tảng khác trong đời sống và sứ vụ của giáo dân : lời kêu gọi phải lớn lên, không ngừng trưởng thành, và luôn luôn sinh
hoa tráinhiều hơn.
Giống
như một người làm vườn nho chuyên cần, Chúa Cha chăm sóc vườn nho của Ngài. dân
Israel đã tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa mau đến bằng lời kinh này : "Lạy
Chúa Tể càn khôn, xin trở lại ! Tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài
thăm nom vườn nho cũ : bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng, và chồi non được Ngài
ban sức mạnh" (Tv 80,15-16). Còn Đức Giêsu thì nói : "Thầy là cây nho thật, và
Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái,
thì Người chặt đi ; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh
nhiều hoa trái hơn" (Ga 15,1-2).
Sức
sống của cành tùy thuộc vào sự gắn liền với cây là Đức Giêsu-Kitô : "Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì
người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì
được" (Ga 15,5).
Con
người được Thiên Chúa mời gọi trong sự tự do của mình, để lớn lên, trưởng thành
và sinh hoa trái. Con người không thể không trả lời, không thể không đảm nhận
trách nhiệm. Những lời của Đức Giêsu ám chỉ đến trách nhiệm vừa đáng sợ, vừa
làm phấn khởi : "Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành
nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi" (Ga
15,6).
Chính
trong cuộc đối thoại này giữa Thiên Chúa kêu gọi và con người được gọi trong ý
thức trách nhiệm của mình, mà người ta thấy có thể và thậm chí cần thiết phải có
một sự huấn luyện toàn vẹn và thường xuyên cho người giáo dân. Các Nghị Phụ
Thượng-hội-đồng đã có lý khi dành một phần lớn công việc của mình cho điều đó.
Đặc biệt, sau khi diễn tả việc huấn luyện người giáo dân như “một tiến trình
trưởng thành liên tục của cá nhân trong đức tin và là một tiến trình nên giống
Đức Kitô, theo ý muốn của Chúa Cha, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần”, các
ngài xác quyết rõ ràng : “Việc huấn luyện giáo dân phải nằm trong số những ưu tiên của giáo phận và
phải có chỗ đứng trong chương trình hoạt
động mục vụ, sao cho mọi cố gắng của cộng đồng (các linh mục, giáo
dân, tu sĩ) đều quy hướng về mục đích này”[1].
Khám phá và sống ơn gọi
cũng như
sứ vụ cá nhân của mình
2.
Việc
huấn luyện giáo dân có một mục tiêu cơ bản là giúp họ khám phá ngày một rõ ràng
hơn ơn gọi cá nhân của họ và giúp họ sẵn sàng ngày một nhiều hơn để sống ơn gọi
đó trong việc chu toàn sứ vụ riêng của họ.
Thiên
Chúa gọi tôi và Ngài sai tôi như người thợ vào vườn nho của Ngài ; Thiên Chúa
gọi tôi và Ngài sai tôi đi làm việc cho Vương Quyền Ngài hoàn thành trong lịch
sử : ơn gọi và sứ vụ cá nhân đó xác định phẩm giá và trách nhiệm của từng người
giáo dân, nó cũng là đường nét chủ lực của toàn bộ công trình huấn luyện. Công
trình này có mục đích giúp người giáo dân nhận ra phẩm giá ấy trong niềm hoan
lạc và tri ân, giúp họ đương đầu với trách nhiệm ấy một cách trung tín và quảng
đại.
Quả
thật, Thiên Chúa đã nghĩ đến chúng ta từ đời đời và Ngài đã yêu thương chúng ta
như những nhân vị duy nhất và không thể thay thế, gọi mỗi người chúng ta bằng
tên riêng của mình, như người Mục Tử Tốt Lành “gọi tên từng con chiên một” (Ga
10,3). Tuy nhiên, chương trình vĩnh
cửu của Thiên Chúa chỉ được mặc khải cho mỗi người chúng ta trong tiến trình
lịch sử của đời ta và của những thăng trầm của ta. Do đó, đây là một mặc khải
tiệm tiến : theo một nghĩa nào đó, là mặc khải ngày qua ngày.
Thế
mà, để có thể khám phá ra ý định cụ thể của Chúa về đời sống chúng ta, cần phải
có các điều kiện : mau mắn và ngoan ngõan lắng nghe Lời Chúa, trung thành và
kiêm tâm cầu nguyện, tiếp xúc với vị hướng dẫn thiêng liêng khôn ngoan và từ
ái, nhìn ra, trong niềm tin, những ân điển và những tài năng mình đã nhận được,
đồng thời cũng nhìn ra những hoàn cảnh xã hội và lịch sử khác nhau mà mình đang
sống.
Ngoài
ra, trong cuộc sống của mỗi người giáo dân, còn có những thời điểm đặc biệt có
ý nghĩa và có tính cách quyết định để biện phân lời mời gọi của Chúa và đón
nhận sứ vụ Ngài giao phó : trong số đó, có thời
thiếu niên và thời tuổi trẻ.
Tuy thế, đừng ai quên rằng Chúa, như người chủ vườn trong dụ ngôn, kêu gọi vào mọi lúc trong cuộc đời, kêu gọi hiểu
theo nghĩa Ngài tỏ cho biết thánh ý của Ngài một cách cụ thể và chính xác ; đó
là lý do vì sao tỉnh thức, hiểu theo nghĩa ân cần chăm chú nghe tiếng Chúa, là
thái độ nền tảng và kiên trì của người môn đệ.
Dù
sao đi nữa, đây không chỉ là biết
điều Thiên Chúa muốn nơi ta, nơi mỗi người chúng ta, trong những hoàn cảnh khác
nhau của đời sống. Còn phải làm
điều Thiên Chúa muốn ; lời Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, nói với các gia nhân ở
Cana , nhắc nhớ cho chúng ta điều đó : “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
Để
hành động với tất cả lòng trung tín theo ý định của Thiên Chúa, người môn đệ
cần phải có khả năng và làm cho
mình ngày càng có khả năng hơn.
Chắc chắn phải có ân sủng của Chúa ; ân sủng này không bao giờ thiếu, như thánh
Lêô Cả đã nói : “Đấng đã ban cho anh phẩm giá, sẽ ban cho anh sức mạnh !”[2].
Nhưng cũng phải có sự cộng tác tự do và có trách nhiệm của mỗi người chúng ta.
Đó
là trách vụ diệu kỳ và lôi cuốn vẫn luôn chờ đợi mỗi giáo dân, mọi kitô-hữu :
luôn nhận biết hơn nữa nguồn phong phú của đức tin, của bí tích Thánh Tẩy và
sống những sự phong phú đó trong sự sung mãn không ngừng gia tăng, như lời
thánh tông đồ Phêrô khuyên nhủ chúng ta, khi ngài nói về sự sinh ra và lớn lên
như hai giai đoạn trong đời sống kitô-hữu : "Như trẻ sơ sinh, anh em hãy
khao khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu
độ" (1 Pr 2,2).
Huấn luyện toàn vẹn để có một
đời sống thống nhất
3.
Đối với
người giáo dân, việc khám phá và thực hiện ơn gọi và sứ mạng cá nhân đòi họ
phải được huấn luyện để có một cuộc sống thống
nhất, là nét ghi dấu nơi chính hữu thể của họ, với tư cách là những chi thể của Giáo Hội và là công dân của xã hội
nhân loại.
Trong
cuộc sống của họ, không thể có hai đời sống song song : một bên là đời sống gọi
là “thiêng liêng” với những giá trị và những đòi hỏi riêng ; và bên kia là đời
sống “trần thế”, nghĩa là đời sống gia đình, nghề nghiệp, những tương quan xã
hộim sự tham gia chính trị, các hoạt động văn hóa. Cành nho nào được ghép vào
cây nho là Đức Kitô sẽ trổ sinh hoa trái trong mọi lãnh vực của hoạt động và
của cuộc sống. Thực vậy, mọi lãnh vực của đời sống giáo dân đều nằm trong ý
định của Thiên Chúa, Đấng muốn những lãnh vực đó là “môi trường lịch sử” để đức
ái của Đức Giêsu-Kitô được mặc khải và thực thi, nhằm vinh quang Chúa Cha và
phục vụ các anh em. mọi hoạt động, mọi tình huống, mọi dấn thân cụ thể – chẳng
hạn như khả năng chuyên môn và sự liên đới trong công việc, sự yêu thương và
tận tụy trong gia đình cũng nh7 việc giáo dục con cái, dịch vụ xã hội và chính
trị, việc trình bày chân lý trong lãnh vực văn hóa – tất cả những điều đó là cơ
hội được Thiên Chúa quan phòng để “không ngừng thực thi đức tin, đức cậy và đức
mến”[3].
Công
Đồng Vatican II đã kêu gọi mọi người giáo dân hướng tới sự thống nhất đời sống này khi Công Đồng
mạnh mẽ tố giác tính cách trầm trọng của sự phân cách giữa đức tin và đời sống,
giữa Tin Mừng và Văn Hóa : “Công Đồng khuyến khích các kitô-hữu, công dân của
cả hai đô thị, hãy nỗ lực chu toàn những bổn phận trần thế của họ, và chu toàn
dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm. Thực sai lầm cho những ai biết rằng
chúng ta không có một quê hương trường tồn ở trần thế, nhưng phải kiếm tìm một
quê hương hậu lai, mà lại tưởng rằng mình có thể xao lãng các bổn phận trần
gian, như thế là không nhận thấy chính đức tin buộc phải chu tòan các bổn phận
đó hoàn hảo hơn, mỗi người tùy theo ơn gọi của mình. Ngược lại, cũng sai lầm
không kém đối với những ai nghĩ rằng có thể dấn thân hoàn toàn vào các sinh
hoạt trần thế như thể các sinh hoạt ấy hoàn toàn xa lạ với đời sống tôn giáo,
vì cho rằng đời sống tôn giáo chỉ hệ tại những hành vi phụng tự và một vài bổn
phận luân lý phải chu toàn . sự phân ly giữa đức tin mà họ tuyên xưng và cuộc
sống thường nhật của nhiều người phải kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất
của thời đại chúng ta”[4].
Đó
là lý do vì sao tôi đã khẳng định rằng một đức tin mà không trở thành văn hóa
là một đức tin “không được đón nhận trọn vẹn, không được suy nghĩ thấu đáo, và
không được sống một cách trung tín”[5].
Các khía cạnh của việc huấn
luyện
4.
Nhiều
khía cạnh phối hợp với nhau của việc huấn
luyện toàn vẹn người giáo dân được lồng vào trong một tổng hợp đời
sống như vậy.
Chắc
chắn việc huấn luyện thiêng liêng
phải chiếm một vị trí ưu đãi trong đời sống của mỗi người, bởi vì mỗi người
được kêu gọi để không ngừng lớn lên trong tình thân mật với Đức Giêsu-Kitô,
trong sự hòa hợp với ý muốn của Chúa Cha, trong sự tận tụy cho các anh em,
trong bác ái và sự công bình. Công Đồng nói : “Đời sống kết hiệp mật thiết với
Chúa Kitô trong Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng sự phù giúp thiêng liêng chung
cho mọi tín hữu, nhất là bằng việc tham dự tích cực và Phụng Vụ thánh. Người
giáo dân phải làm thế nào để nhờ những phương tiện ấy mà chu toàn nhiệm vụ trần
thế trong những hoàn cảnh thường xuyên của cuộc sống mà vẫn không tách khỏi đời
sống mình sự kết hiệp với Chúa Kitô, nhưng càng kết hiê5p mật thiết hơn khi thi
hành công việc của mình theo ý Thiên Chúa”[6].
Ngày
nay, việc huấn luyện đạo lý cho
các tín hữu mỗi ngày một khẩn thiết hơn, không những vì sự năng động tự nhiên
thúc đẩy việc đào sâu đức tin, nhưng còn vì nhu cầu “chứng thực niềm hy vọng”
nơi họ trước một thế giới cũng như trước những vấn đề nghiêm trọng và phức tạp
của thế giới. Do đó, một hoạt động huấn giáo
có hệ thống, thích hợp với lứa tuổi và với những hoàn cảnh khác nhau của cuộc
sống, một sự thăng tiến văn hóa
theo tinh thần Kitô-giáo cách cương quyết hơn, được coi là tuyệt đối cần thiết,
để có thể trả lời cho những vấn đề muôn thuở cũng như những vấn đề mới đang làm
cho con người và vũ trụ hiện nay giao động.
Đặc
biệt, một điều không thể thiếu được, là người giáo dân, nhất là những người
tham gia nhiều cách khác nhau vào lãnh vực xã hội hoặc chính trị, cần phải hiểu
biết chính xác hơn về học thuyết xã hội của
Giáo Hội, như các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã nhiều lần đòi hỏi
trong các phát biểu của mình. Khi nói tới việc tham gia của giáo dân vào chính
trị, Thượng-hội-đồng đã diễn tả như sau : “Để người giáo dân có thể tích cực
thực hiện dự phóng cao quý này trong lãnh vực chính trị (tức là dự phóng làm
cho người ta nhìn nhận và quý trọng các giá trị nhân bản và Kitô-giáo), chỉ
khuyến khích mà thôi thì không đủ, cần phải trao cho họ những phương tiện cần
thiết để đào tạo lương tâm xã hội của họ, đặc biệt dựa vào học thuyết xã hội
của Giáo Hội, là học thuyết bao gồm những nguyên tắc suy tư, những tiêu chuẩn
phán đoán và những chỉ dẫn hành động (x.
TB. Giáo Lý Đức Tin, “Huấn thị về Tự Do Kitô-giáo và giải phóng”, 72). Học
thuyết này phải được đua vào trong chương trình huấn giáo cơ bản và phải được
giải thích trong những khóa chuyên biệt cũng như trong các trường học và đại
học. Cũng nên ghi nhận rằng học thuyết xã hội của Giáo Hội có tính năng động,
nghĩa là nó thích ứng với hoàn cảnh không gian và thời gian. Các vị chủ chăn có
quyền và nghĩa vụ đề ra những nguyên tắc lyuân lý thuộc lãnh vực xã hội cũng
như những lãnh vực khác ; mọi kitô-hữu phải sẵn sàng bảo vệ các quyền con người
; tuy nhiên, việc dấn thân tích cực trong các đảng phái chính trị được dành cho
người giáo dân”[7].
Trong
bối cảnh của việc huấn luyện giáo dân cách toàn vẹn và thống nhất, phải luư tâm
tài bồi các giá trị nhân bản ; đó là điều quan trọng trong công tác truyền giáo
và tông đồ. Chính trong chiều hướng này, Công Đồng đã viết : “(Giáo dân) nên
quý trọng chuyên môn nghề nghiệp, ý nghĩa gia đình và công công dân, cũng như
những đức tính liên quan tới đời sống xã hội chẳng hạn sự lương thiện, tinh
thần công bình, lòng thành thực, sự tế nhị, lòng quả cảm ; không có những đức
tính đó, không thể có đời sống kitô-hữu đích thực”[8].
Những cộng tác viên của Thiên
Chúa, nhà giáo dục
5.
Huấn
luyện các tín hữu ở đâu và bằng những phương tiện nào ? Những ai và những cộng đồng nào được kêu
gọi để chu toàn nhiệm vụ huấn luyện giáo dân cách toàn vẹn và thống nhất ?
Cũng
như công trình giáo dục con người liên kết sâu xa với thiên chức làm cha làm
mẹ, việc huấn luyện Kitô-giáo bắt nguồn và nhận được sức mạnh từ Thiên Chúa ;
Ngài là người Cha yêu thương và giáo dục con cái. Phải, Thiên Chúa là nhà giáao dục đầu tiên và cao cả của Dân Ngài,
như đoạn văn tuyệt với trong bài ca của Môsê đã viết : "Gặp thấy nó giữa
miền hoang địa, giữa cảnh hỗn mang đầy
tiếng hú rợn rùng, Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào
con ngươi mắt Chúa. Tựa chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay
nhảy, xoè cánh ra đỡ lấy rồi cõng con
trên mình. Duy một mình Đức Chúa lãnh đạo dân ; chẳng có thần ngoại bang nào bên cạnh Chúa" (Dnl
32,10-12 ; x. 8,5).
Công
trình giáo dục của Thiên Chúa được bày tỏ và hoàn tất nơi Đức Giêsu là Thầy, và
tác động từ bên trong tâm hồn con người nhờ sự hiện diện năng động của Thánh
Thần. Giáo Hội – hiền mẫu được
kêu gọi để cộng tác vào công trình giáo dục này của Thiên Chúa, trong chính bản
thân Giáo Hội cũng như trong những phát biểu và diễn đạt khác nhau của mình.
Chính như thế mà người giáo dân được huấn
luyện nhờ Giáo Hội và trong Giáo Hội, trong sự hiệp thông và cộng
tác hỗ tương giữa mọi thành phần của Giáo Hội là linh mục, tu sĩ và giáo dân.
Chính như thế mà toàn thể cộng đồng Giáo Hội, trong các chi thể khác nhau của
mình, đã nhận được sự phong phú của Thánh Thần và góp phần cộng tác vào đó,
thánh Mêthôđô Olympia đã viết : “Những người bất toàn ... được cưu mang và
thành hình, giống như trong lòng một người mẹ, nhờ những người hoàn hảo hơn, để
họ cũng được cưu mang và sinh ra do sự cao cả và vẻ đẹp của nhân đức”[9]
; đó là điều đã xảy ra cho Thánh Phaolô, người đã được cưu mang và được đưa vào
Giáo Hội nhờ những kitô-hữu đã được đào tạo (qua ông Anania), để rồi đết lượt
ngài, ngài cũng trở nên hoàn hảo và làm cha thiêng liêng của biết bao con cái !
Công
trình giáo dục trước hết là việc của Giáo
Hội toàn cầu ; đức Giáo Hoàng giữ vai trò nhà giáo dục đầu tiên của
giáo dân. Là người kế vị Thánh Phêrô, ngài có tác vụ “củng cố anh em mình trong
đức tin” bằng cách giảng dạy cho mọi tín hữu những yếu tố thiết yếu trong ơn
gọi cũng như sứ vụ Kitô-giáo và Giáo Hội. Không chỉ những lời do chính ngài
nói, nhưng cả những gì được chuyển đạt trong các văn kiện của các Cơ Quan khác
nhau của Tòa Thánh đều phải được giáo dân lắng nghe với lòng tuân phục yêu mến.
Giáo
Hội Duy Nhất và phổ quát cũng hiện diện trong mỗi phần khác nhau của thế giới,
trong các Giáo Hội địa phương. Tại mỗi Giáo Hội địa phương, Giám Mục có một
trách nhiệm cá nhân đối với giáo dân ; ngài phải huấn luyện họ bằng việc loan
báo Lời Chúa, cử hành phụng vụ Thánh Thể và các bí tích, làm sinh động và hướng
dẫn đời sống kitô-hữu của họ.
Trong
lòng Giáo Hội địa phương hoặc giáo phận, có sự hiện diện và hoạt động của giáo xứ. Giáo xứ giữ một vai trò thiết yếu
trong việc huấn luyện giáo dân cách trực tiếp và cá nhân hơn. Thực vậy, giáo xứ
có điều kiện dễ dàng để đến với riêng từng người và từng nhóm, nên được kêu gọi
đào tạo các phần tử của mình biết lắng nghe Lời Chúa, biết đối thoại với Chúa
trong cử hành phụng vụ cũng như cầu nguyện riêng, biết sống bác ái huynh đệ, và
làm cho họ thấy được, một cách trực tiếp và cụ thể hơn, ý nghĩa của sự hiệp
thông giáo hội và của trách nhiệm truyền giáo.
Trong
lòng một số giáo xứ, nhất là các giáo xứ rộng lớn và phân tán, sự hiện diện của
những cộng đồng giáo hội nhỏ bé
có thể rất có ích cho việc huấn luyện Kitô-giáo, bằng cách làm cho ý thức và
kinh nghiệm về sự hiệp thông và về sứ vụ giáo hội trở nên sâu xa và sắc bén
hơn. Như các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã tuyên bố, có thể có một hình thức trợ
giúp khác, qua việc huấn giáo sau bí tích thánh tẩy dưới hình thức dự tòng,
trình bày lại một số yếu tố trong Nghi thức Khai Tâm Kitô-giáo Cho Người Lớn,
để giúp họ đón nhận và sống kho tàng phong phú bao la và lạ lùng của bí tích
Thánh Tẩy mà họ đã lãnh nhận, cũng như những trách nhiệm phát xuất từ bí tích
đó.[10]
Trong
việc huấn luyện giáo dân tại giáo phận hay giáo xứ, nhất là với những gì liên
quan đến ý nghĩa của sự hiệp thông và của sứ vụ, sự nâng đỡ lẫn nhau giữa các
thánh phần khác nhau trong Giáo Hội có một tầm quan trọng đặc biệt : sự nâng đỡ
này vừa bày tỏ vừa thể hiện mầu nhiệm Giáo Hội là Mẹ và là Nhà Giáo Dục. Các
linh mục và tu sĩ phải giúp đỡ giáo dân trong việc huấn luyện họ. Trong chiều
hướng này, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã kêu mời các linh mục và các ứng viên
sắp chịu chức thánh hãy “chuẩn bị chu đáo để có khả năng giúp đỡ giáo dân trong
ơn gọi và sứ vụ của họ”[11].
Về phần mình, chính giáo dân cũng có thể và phải giúp đỡ các linh mục và tu sĩ
trên bước đường thiêng liêng và mục vụ của các ngài.
Các môi trường giáo dục
6.
Gia đình Kitô-giáo, như là “Giáo Hội tại gia”, cũng là một trường học tự
nhiên và căn bản trong việc huấn luyện đức tin : từ bí tích Hôn Phối, cha mẹ
nhận được ân sủng và trách vụ giáo dục Kitô-giáo cho con cái mình, họ làm chứng
tá trước mặt con cái và chuyển đạt cho chúng cả các giá trị nhân bản lẫn các
giá trị tôn giáo. khi bập bẹ học nói những tiếng đầu tiên, đứa trẻ cũng học ca
tụng Thiên Chúa, Đấng mà chúng cảm thấy gần gũi như một người Cha đầy thương
yêu ân cần ; khi học những cử chỉ trìu mến đầu tiên, đứa trẻ cũng học cách đón
nhận người khác và nhận ra ý nghĩa của đời sống con người trong việc cho đi
chính mình. Chính cuộc sống hằng ngày của một gia đình Kitô-giáo đích thực làm
nên “kinh nghiệm đầu tiên về Giáo Hội”, là kinh nghiệm giúp trẻ em được vững
mạnh và phát triển trong việc hội nhập tích cực và có trách nhiệm vào một cộng
đồng giáo hội rộng lớn hơn và vào xã hội dân sự. Các đôi vợ chồng và cha mẹ
kitô-hữu càng ý thức nhiều hơn rằng “Giáo Hội tại gia” của mình tham dự vào đời
sống và sứ vụ của Giáo Hội toàn cầu, thì con cái của họ càng có thể được đào
tạo về “cảm thức Giáo Hội” và càng hiểu biết vẻ đẹp của việc hiến dâng sức lực
của mình để phục vụ Nước Thiên Chúa.
Các
trường học và đại học công giáo
cũng là những môi trường quan trọng cho việc huấn luyện, cũng vậy là các trung
tâm giúp canh tân đời sống thiêng liêng, mà, ngày nay đang gia tăng. Trong bối
cảnh xã hội và lịch sử hiện thời, được đánh dấu bởi sự tiến triển sâu xa về văn
hóa, sự tham gia của cha mẹ kitô-hữu vào sinh hoạt của nhà trường vẫn còn thiếu
sót, như các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã nêu lên ; phải chuẩn bị những giáo dân
đang hiến mình cho công cuộc giáo dục, như cho một sứ vụ giáo hội đúng nghĩa ;
phải thiết lập và khuyếch trương những “cộng đồng giáo dục”, bao gồm một trật
những bậc phụ huynh, các vị giảng huấn, các linh mục, tu sĩ nam nữ, đại diện
giới trẻ. Để nhà trường có thể thi hành một cách xứng đáng chức năng giáo dục,
giáo dân phải cảm thấy cần đòi hỏi mọi người tôn trọng sự tự do đích thực trong
việc giáo dục và cổ võ sự tự do ấy vì lợi ích của mọi người, kể cả nhờ đến một
pháp chế dân sự thích hợp.[12]
Các
Nghị Phụ Thượng-hội-đồng đã ưu ái và khuyến khích mọi giáo dân, nam cũng như
nữ, đang đảm nhiệm trách vụ giáo dục trong các trường học và các viện giáo dục
với một tinh thần công dân và Kitô-giáo sâu sắc. Ngoài ra, các ngài cũng lưu ý
một nhu cầu khẩn cấp là các giáo dân làm giáo viên hay giáo sư trong các trường
khác nhau, công giáo hay không, phải là chứng nhân đích thực của Tin Mừng, bằng
gương sáng đời sống, bằng khả năng và lương tâm nghề nghiệp, bằng các bài giảng
huấn thấm nhuần tinh thần Kitô-giáo, dĩ nhiên phải luôn tôn trọng sự độc lập
của các ngành khoa học và các bộ môn khác nhau. Một điều đặc biệt quan trọng là
việc nghiên cứu khoa học và kỹ thuật, do giáo dân đảm trách, lấy việc phục vụ
con người trong toàn bộ những giá trị và những đòi hỏi của con người làm tiêu
chuẩn : Giáo Hội trao phó cho các giáo dân này việc lo sao cho mối liên hệ thâm
sâu giữa đức tin và khoa học, giữa Tin Mừng và văn hóa nhân loại, được dễ cảm
nhận hơn đối với mọi người.[13]
Một
trong những đề nghị của Thượng-hội-đồng có viết : “Thượng-hội-đồng này nhờ đến
vai trò tiên tri của các trường học và đại học công giáo, cángợi sự tận tụy của
các thần cô, những nhà giảng huấn mà hiện nay đa số là giáo dân, sao cho trong
các cơ sở giáo dục công giáo, họ có thể đào tạo được những người nam nữ thấm
nhuần ‘giới răn mới’. Sự có mặt cùng một lúc của các linh mục và giáo dân, cũng
như các tu sĩ nam nữ, giúp cho người thụ huấn thấy được một khuôn mặt sống động
của Giáo Hội và giúp họ dễ dàng nhận biết sự phong phú của Giáo Hội (x. TB. Giáo Dục Công Giáo, “Nhà giáo
dục giáo dân, chứng nhân của đức tin trong các trường học)”[14].
Tương
tự như thế, các nhóm, các hiệp hội và các
phong trào cũng có chỗ đứng trong việc huấn luyện giáo dân. Thực
vậy, mỗi tập thể trên, với những phương pháp riêng của mình, đều có khả năng
cống hiến một sự huấn luyện ăn sâu vào chính kinh nghiệm của đời sống tông đồ ;
các tập thể này cũng có dịp để bổ túc, cụ thể hóa và định rõ tính chất việc
huấn luyện mà các phần tử của mình đã nhận được từ cac thầy khác hay các cộng
đồng khác.
Mọi người huấn luyện lẫn nhau
7.
Việc
huấn luyện không phải là đặc quyền của một số người, nhưng thực sự là quyền lợi
và nghĩa vụ của mọi người. về điều này, các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng yêu cầu :
“Làm sao cho mọi người, nhất là những người nghèo, đều có thể được huấn luyện,
để đến lượt mình, chính họ có thể trở thành nguồn mạch huấn luyện cho mọi
người” ; các Nghị Phụ còn thêm : “Trong việc huấn luyện, nên sử dụng những
phương tiện thích ứng giúp cho người kitô-hữu thực hiện tốt hơn ơn gọi đầy đủ
làm người và làm kitô-hữu của họ”[15].
Để
thực hiện một đường lối mục vụ thực sự hữu hiệu, cần phải cổ võ việc đào tạo các người huấn luyện, kể cả việc thiết lập
các khóa học hay các trường dành riêng cho công việc đó. Việc đào tạo những
người mà, đến lượt mình, sẽ đảm nhận công việc huấn luyện giáo dân, là một đòi
hỏi tiên quyết để bảo tồn việc huấn luyện tổng quát và sâu xa cho toàn thể Dân
Chúa, cho mọi giáo dân.
Trong
công trình huấn luyện, cần phải lưu ý đặc biệt tới văn hóa địa phương, như
Thượng-hội-đồng đã kêu gọi rõ ràng : “Việc huấn luyện các kitô-hữu phải hết sức
quan tâm đến văn hóa địa phương, vì văn hóa này góp phần vào chính việc huấn
luyện ; việc huấn luyện ấy phải hướng dẫn để nhận ra những giá trị đã có trong
văn hóa truyền thống, và những giá trị trong văn hóa mới. Phải chú ý đến những
nền văn hóa khác nhau có thể cũng tồn tại trong một dân tộc hay trong một quốc
gia. Với tư cách là Mẹ và là Thầy của các dân, Giáo Hội sẽ cố gắng gìn giữ, khi
có dịp, nền văn hóa của các nhóm thiểu số đang sống giữa lòng các quốc gia lớn”[16].
Trong
công trình huấn luyện, có một vài xác tín hết sức cần thiết và phong phú. Trước
tiên, đó là xác tín rằng không thể có việc huấn luyện đích thực và hữu hiệu nếu
mỗi người không tự đảm nhận và phát triển trách nhiệm đào tạo chính mình : quả
thực, mọi việc huấn luyện thiết yếu là một thứ “tự-huấn-luyện”.
Tiếp
đến là xác tín rằng mỗi người chúng ta vừa là đích điểm vừa là khởi điểm của
việc huấn luyện : chúng ta càng huấn luyện mình cho tốt hơn thì càng có khả
năng huấn luyện người khác.
Điểm
đặc biệt quan trọng là ý thức rằng công trình huấn luyện cho dù chắc chắn không
thể nại tới các phương tiện và phương pháp của khoa học nhân văn một cách thông
minh, nhưng nó chỉ hữu hiệu trong mức độ sẵn sàng để Thiên Chúa hành động : chỉ có cành nào không sợ để cho
thợ vườn nho cắt tỉa mới mang lại hoa trái nhiều hơn cho chính mình và cho
người khác.
Kêu mời và cầu nguyện
8.
Để kết
luận văn kiện hậu-thượng-hội-đồng này, một lần nữa, tôi nhắc lại lời kêu mời
của “chủ vườn nho” như Tin Mừng đã nói : Cả
các anh nữa, hãy đi làm vườn nho cho tôi ! Có thể nói rằng ý nghĩa
mà Thượng-hội-đồng hiểu về ơn gọi và sứ vụ của giáo dân nằm ngay trong lời kêu mời này của Đấng Cứu Thế gửi tới mọi người,
đặc biệt các giáo dân, nam cũng như nữ.
Công
việc của Thượng-hội-đồng đã mang lại cho tất cả mọi tham dự viên một kinh
nghiệm thiêng liêng lớn : kinh nghiệm một Giáo Hội, trong ánh sáng và sức mạnh
của Chúa Thánh Thần, sẵn sàng biện phân và đón nhận lời mời gọi được lặp đi lặp
lại của chúa, nhằm để, một lần nữa, trình bày cho thế giới ngày nay biết mầu
nhiệm hiệp thông và tính năng động trong sứ vụ cứu độ của Giáo Hội, và điều đó
được thực hiện nhờ hiểu rõ vị trí và vai trò đặc biệt của giáo dân. Tông Huấn
này muốn làm cho hoa trái của Thượng-hội-đồng được nên phong phú bao nhiêu có
thể, trong tất cả các Giáo Hội phân tán khắp nơi trên thế giới ; hoa trái đó
phát sinh từ việc toàn thể Dân Chúa, trong đó có các giáo dân, đón nhận hữu
hiệu lời mời gọi của Chúa.
Chính
vì vậy, tôi hết lòng khuyên nhủ mọi người và từng người, hãy kiên quyết gìn giữ
trong tâm hồn cũng như trong đời sống một ý
thức về Giáo Hội, nghĩa là ý thức mình là chi thể của Giáo Hội Chúa
Kitô và mình được tham dự vào mầu nhiệm hiệp thông cũng như vào năng lực tông
đồ và truyền giáo của Giáo Hội.
Điều
tối quan trọng là tất cả mọi kitô-hữu phải ý thức về phẩm giá đặc biệt mình đã nhận được qua bí tích Thánh Tẩy :
nhờ ân sủng, chúng ta được kêu gọi làm con yêu dấu của Chúa Cha, làm chi thể
tháp nhập vào Đức Giêsu-Kitô và Giáo Hội của Ngài, làm đền thờ sống động và
thánh thiện của Thánh Thần. Một lần nữa, với tâm tình cảm động và biết ơn,
chúng ta hãy đọc lại những lời của Thánh Sử Gioan : “Anh em hãy xem, Chúa Cha
yêu chúng ta dường nào, đến nỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự
chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1).
Sự
“mới mẻ Kitô-giáo” này được ban cho các chi thể của Giáo Hội, làm nên nền tảng
của việc tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô, và cũng
làm nên nền tảng của ơn gọi nên thánh trong tình yêu ; sự mới mẻ đó được diễn
tả và thực hiện nơi người giáo dân theo “đặc tính trần thế” là tính cách “riêng
biệt và đặxc thù” của họ.
Ngoài
ý thức về phẩm giá kitô-hữu của mọi người, ý thức về Giáo Hội còn bao gồm ý
thức mình thuộc về mầu nhiệm Giáo Hội – Hiệp
Thông : đó chính là một khía cạnh nền tảng và có tính cách quyết
định cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Đối với mọi người cũng như từng người,
lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly : “Xin cho họ được
nên một !”, mỗi ngày phải trở nên một chương trình sống và hành động có tính
cách bó buộc và không thể trốn tránh.
Ý
thức sống động về sự hiệp thông giáo hội, một ân huệ Thánh Thần thúc đẩy chúng
ta tự do đáp lại, sẽ có được hoa trái quý báu là làm nổi bật một cách hài hòa,
trong Giáo Hội “duy nhất và công giáo”, nét đa dạng phong phú về ơn sọi và hoàn
cảnh sống, các đoàn sủng, tác vụ, trách vụ và nhiệm vụ ; hoa trái đó còn là một
sự cộng tác đầy tin tưởng và dứt khoát hơn của các nhóm, các hiệp hội và các
phong trào giáo dân, trong việc liên đới chu toàn sứ vụ cứu độ chung của chính
Giáo Hội. Sự hiệp thông này, tự nó, đã là dấu chỉ lớn lao đầu tiên về sự hiện
diện của Đức Kitô Cứu Thế trong thế giới ; đồng thời, nó cũng thúc đẩy hoạt
động tông đồ trực tiếp và truyền giáo của Giáo Hội.
Trước
thềm thiên niên kỷ thứ ba, toàn thể Giáo Hội, các chủ chăn cũng như tín hữu,
phải cảm thấy mạnh mẽ hơn trách nhiệm của mình là tuân phục lệnh truyền của
Chúa Kitô : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi
loài thụ tạo” (Mc 16,15), và có
một hứng khởi truyền giáo mới. Giáo Hội được trao phó một công trình có tầm mức
lớn lao, có nhiều đòi hỏi và rất huy hoàng rực rỡ : công trình của cuộc phúc-âm-hóa mới mà thế giới ngày nay đang
hết sức cần đến. Giáo dân phải cảm thấy mình có dự phần trong công trình này,
được kêu gọi để loan báo và sống Tin Mừng, bằng cách phục vụ con người và xã
hội trong tất cả những gì là giá trị và đòi hỏi nơi cả hai.
Thượng
Hội Đồng Giám Mục, nhóm họp vào tháng mười Năm Thánh Mẫu, đã đặc biệt trao phó
những công việc của mình cho sự cầu bầu của Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế. Giờ
đây, tôi cũng trao phó cho sự cầu bầu của Người thành quả thiêng liêng từ những
kết quả của Thượng-hội-đồng. Kết thúc văn kiện hậu-Thượng-hội-đồng này, trong
sự hiệp thông với các Nghị Phụ và các giáo dân hiện diện trong Thượng-hội-đồng,
với mọi thành phần của Dân Thiên Chúa, tôi
muốn thân thưa với Đức Trinh Nữ, dưới hình thức một lời cầu nguyện sau đây :
Lạy
Trinh Nữ rất thánh,
Mẹ Đức
Kitô và Mẹ Giáo Hội,
chúng
con vui mừng và cảm phục,
hiệp
nhất với lời kinh Magnificat của Mẹ,
một
bài ca đầy tri ân cảm mến.
Cùng
với Mẹ, chúng con tạ ơn Thiên Chúa
đã “tỏ
tình thương trải qua đời nọ đến đời kia”,
tạ ơn
vì ơn gọi chói ngời
và vì
sứ vụ muôn vẻ của người giáo dân,
Chúa
kêu gọi mỗi người trong họ
sống
hiệp thông tình yêu và thánh thiện với Chúa
và
hiệp nhất với nhau như anh em
trong
đại gia đình các con cái Chúa.
Họ
cũng được sai đi
chiếu
tỏa ánh sáng Chúa Kitô
thông truyền lửa Thánh Thần
bằng đời sống phúc âm của
họ
trong tất cả mọi lãnh vực
của cuộc sống trần gian.
Lạy Đức Trinh Nữ,
Mẹ đã xướng lên bài ca
Magnificat,
xin hãy đổ đầy tâm hồn họ
tâm tình biết ơn và lòng
hăng say
vì ơn gọi và sứ vụ này.
Mẹ đã là “nữ tỳ của Thiên
Chúa”,
đầy lòng khiêm cung và độ
lượng,
xin cho chúng con được hoàn
toàn sẵn sàng như Mẹ
để phục vụ Thiên Chúa và
đem ơn cứu độ cho thế giới.
Xin mở lòng chúng con
đến tận những chân trời bao
la của Vương Triều Thiên Chúa
và của việc loan báo Tin
Mừng cho tất cả mọi tạo vật.
Trái Tim Mẹ không ngừng lo
lắng
về bao nỗi hiểm nguy,
về vô vàn sự dữ đang đè
nặng trên những con người
trong thế giới hôm nay.
Nhưng Trái Tim Mẹ cũng lưu
ý
đến bao nhiêu sáng kiến vì
lợi ích con người,
đến nhiều khát vọng lớn lao
hướng về các giá trị,
đến những tiến bộ đạt được
đem lại hoa trái dồi dào
của ơn cứu độ.
Lạy Đức Trinh Nữ can
trường,
xin ban cho chúng con sức
mạnh tâm hồn
và niềm tín thác vào Thiên
Chúa,
Đấng sẽ giúp chúng con
thắng vượt mọi chướng ngại
để hoàn thành sứ vụ của
chúng con.
Xin Mẹ dạy cho chúng con
sống những thực tại trần
gian với ý thức mạnh liệt
về trách nhiệm của người
kitô-hữu
và trong niềm hy vọng hân
hoan
Ngày Nước Thiên Chúa đến,
Ngày của Trời Mới Đất Mới.
Mẹ đã hiện diện trong Nhà
Tiệc Ly,
cùng với các Tông Đồ cầu
nguyện,
trông đợi Chúa Thánh Thần
ngự xuống
trong ngày Lễ Ngũ Tuần ;
giờ đây, xin Mẹ cầu khẩn
Chúa Thánh Thần
lại ngự xuống tràn đầy
trên mọi tín hữu nam nữ,
để họ hết lòng đáp lại ơn
gọi và sứ vụ của mình,
như cành của cây nho đích
thực,
được kêu gọi trổ sinh nhiều
hoa trái
cho cuộc sống trần gian.
Lạy Mẹ Nữ Trinh,
xin hướng dẫn và nâng đỡ
chúng con
để chúng con luôn sống
như những người con đích
thực
trong Giáo Hội của Con Mẹ,
và để chúng con có thể góp
phần xây dựng
nền văn minh của chân lý và
tình yêu trên trái đất
theo ý muốn của Thiên Chúa
và vì vinh quang của Ngài.
Amen.
Ban hành tại Rôma, gần Đền
Thờ Thánh Phêrô, ngày 30 tháng Mười Hai, ngày lễ Thánh Gia thất Chúa Giêsu, Đức
Maria và Thánh Giuse, năm 1988, năm thứ mười một triều đại Giáo Hoàng của tôi.
Ioannes Paulus PP. II
[1]
Đề
nghị 40
[2]
“Đấng đã ban phẩm chức thì cũng sẽ
ban khả năng” (thánh LÊÔ CẢ, Bài giảng
II, 1)
[3]
CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ giáo dân, s. 4
[4]
CĐ Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay,
s. 43 ; xt. Sắc lệnh về hoạt động Truyền
Giáo của Giáo Hội, s. 21 ; Đức PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan báo Tin Mừng, s. 20
[5]
Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Diễn từ đọc
trước các tham dự viên Hội Nghị của Phong trào trong Giáo Hội dấn thân vào lãnh
vực văn hóa (16/01/1982), 2 ; xt. Thư gửi Hồng y Agostino Casaroli, Quốc Vụ
Khanh Tòa Thánh, qua thư này Đức giáo hoàng thiết lập Hội Đồng Giáo Hòang về
Văn Hóa (20/5/1982) ; Diễn văn đọc tại cộng đồng đại học Louvain (20/5/1985)
[6]
CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ của giáo dân, s. 4
[7]
Đề
nghị 22 ; cũng xem Đức GIOAN-PHAOLÔ II, Thông điệp về Xã Hội, s. 41
[8]
CĐ Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Tông Đồ của giáo dân, s. 4
[9]
Thánh MÊTHÔĐÔ Ôlympia, Symposium
III, 8
[10]
Đề
nghị 11
[11]
Đề
nghị 40
[12]
Đề
nghị 44
[13]
Đề
nghị 45
[14]
Đề
nghị 44
[15]
Đề
nghị 41
[16]
Đề
nghị 42