GIÁO HỘI THEO ĐỨC JOSEPH RATZINGER :
GIÁO HỘI SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Lm.
Giuse Nguyễn Thịnh Phước sdb
Công đồng Vatican II là một cột mốc rất quan trọng
cho toàn thể lịch sử Giáo Hội và là đã đem lại nhiều thay đổi trong đời sống và
hoạt động của Giáo Hội hậu bán thế kỷ 20. Một trong những nhân vật đã có những
đóng góp nhiều ngay từ buổi đầu họp Công đồng Vatican II (1963), cho tới những
năm tháng áp dụng Công đồng và cho đến ngày hôm nay, với tất cả những thăng
trầm của Giáo Hội Công Giáo, chính là Đức Joseph Ratzinger, đương kim Giáo
Hoàng với tước hiệu là Bênêđictô XVI. Sự đóng góp của ngài đã diễn ra trong tư
cách là cố vấn thần học tháp tùng Đức Hồng Y Frings của Tổng Giáo phận Cologne
nước Đức tham dự Công đồng, vị giáo sư thần học của Đại học Bonn, Munster,
Tubingen, Regensburg, Tổng Giám mục Munich, thành viên của Ủy ban Thần học Quốc
tế của Tòa Thánh, Chủ tịch Thánh bộ Đức tin và là thành viên của các thánh bộ
quan trọng trong Giáo triều Rôma : Phụng tự, Giám mục, Giáo dục, Hội đồng Đối thoại
Liên Tôn... Và hiện nay, trong cương vị lãnh đạo toàn thể Giáo Hội Công Giáo Rôma,
ngài đang dẫn dắt Giáo Hội đi trong viễn kiến của Công đồng Vatican II trong
những thập niên đầu của Thiên niên kỷ thứ III với những dấu ấn rất đặc biệt.
Để hiểu được đường hướng ngài sẽ dẫn dắt Giáo Hội
trong thập niên này, chúng ta hãy trở lại những năm tháng ngài đóng góp vào
việc dẫn dắt Giáo Hội trong những vai trò trước khi làm Giáo Hoàng. Chúng ta sẽ
nhìn đến sự đóng góp của ngài, trước hết như là vị lương y định ra căn nguyên
dẫn đến một số khủng hoảng của Giáo Hội tại Phương Tây, với hệ quả là nhiều
Kitô hữu đã hiểu sai và áp dụng sai Công đồng Vatican II (I). Vì vậy, ngài đã
trình bày cách hiểu đúng đắn Giáo Hội của Chúa Kitô theo Công đồng Vatican II
ra sao (II). Và cuối cùng, chúng ta sẽ xem nhận định của Đức Ratzinger về thần
học giải phóng như là thách đố và lời mời gọi Giáo Hội canh tân (III).
Nguồn liệu của chúng ta là từ những chứng từ ngài
viết về Công đồng, những bài viết, sách và các trả lời cho các cuộc phỏng vấn.[1] Tư liệu rất nhiều và chúng ta không có
tham vọng đào sâu hết sự hiểu biết sâu xa của ngài và tầm nhìn của ngài về Giáo
Hội. Trong bài này, chúng ta chỉ xin tạm lượt qua những điểm chính yếu thường
được nhắc đi nhắc lại của Ngài về Giáo hội học.
I.
VỊ LƯƠNG Y
Khi triệu tập Công đồng Vatican II (1959-1962),
Đức Gioan XXIII đã đưa ra một chương trình tổng thể rất lớn, làm chấn động toàn
thể Giáo Hội Công giáo thời bấy
giờ : Đức tin công giáo, không thay đổi trong nội dung nhưng nên được loan báo
cho thế giới ngày nay trong một cách thức, lối diễn tả mới mẻ. Là một trong
những thần học gia trẻ và đầy năng lực, Joseph Ratzinger đã được tham dự Công đồng
trong tư cách là chuyên viên thần học. Được đào tạo trong phong trào canh tân
thần học dưới tên gọi Nouvelle Théologie,
một phong trào tìm cách canh tân Giáo Hội bằng việc trở về cội nguồn,
Ratzinger đã cùng với Karl Rahner, Yves Congar, Chenu làm nên những trụ cột tư
vấn cho các vị chủ chăn trong tất cả những đề tài được bàn thảo trong Công đồng.
Kế hoạch đầu tiên của Ủy ban chuẩn bị Công đồng với những sự sắp xếp nhân sự
trong các Ủy ban cũng như các lược đồ (đề tài làm việc) đã bị bác bỏ ngay từ
những ngày đầu họp Công đồng. Một trong những vị lên tiếng mạnh mẽ nhất là Đức
Hồng Y Frings. Vì mắt ngài kém, hầu chắc những bản văn và những góp ý đã được
viết ra bởi Ratzinger, một giáo sư thần học trẻ mong muốn có những sự canh tân
nơi Công đồng. Chúng ta nhận ra sự đóng góp của ngài về Giáo Hội qua những can
thiệp, những nhận định của ngài về Mạc Khải, về Phụng Vụ và về Giáo Hội.[2] Nói một cách tổng quát, Ratzinger mong
muốn có một sự canh tân Giáo Hội bằng
cách trở về nguồn mạch sâu xa của
Giáo Hội đã được sống động qua truyền
thống.
Quả thực, Công đồng Vatican II đã thổi một luồng
gió canh tân trên toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Thế nhưng, hai thập niên sau
Công đồng, Giáo Hội đã phải chứng kiến những khủng hoảng nói được là rất trầm
trọng. Con số tín hữu vẫn tiếp tục gia tăng nhưng rất là chậm. Trong khi đó,
nhiều phong trào mang danh Công Giáo đã hình thành và lôi kéo nhiều tín hữu rời
xa Giáo Hội. Số người đi tham dự thánh lễ sa sút hẳn tại Giáo Hội Âu Châu. Các
nhà thờ trống vắng. Con số ứng sinh linh mục, tu sĩ giảm sút thấy rõ. Cùng lúc
đó, hàng ngũ tu sĩ linh mục thập niên sau Công đồng xin xuất tu để chọn một bậc
sống khác không phải là ít. Sự phân cực (cấp tiến và bảo thủ ngày càng gay
gắt).[3] Những khủng hoảng hiện nay "không
phải là vấn đề lớn nhất [khi so với buổi đầu lịch sử Giáo Hội], nhưng là một
vấn đề "đang tấn công tận gốc rễ."[4]
A. Định bệnh
Trong vai trò giáo sư, giám mục, và là Chủ tịch Thánh
bộ Giáo lý đức tin, Đức Ratzinger đã nhận ra rất sớm những đe dọa đem lại sự
khủng hoảng cho thế giới và cho Giáo Hội. Ngài đã nhận ra là có những trào lưu
tư tưởng dẫn đến một sự hiểu sai về Giáo Hội của Chúa Kitô. Sự hiểu sai này đã
dần dần thấm vào tư tưởng và đưa tới những hành động, bên ngoài có vẻ là để xây
dựng Giáo Hội, để canh tân Giáo Hội của Chúa Kitô, nhưng thực ra đang làm sói
mòn Tòa Nhà Giáo Hội mà Chúa Kitô đã dựng xây. Thực tại Giáo Hội không bị loại
bỏ hay khước từ một cách công khai, nhưng ý nghĩa đích thực của Giáo Hội đã dần
dần bị hiểu sai và rồi những "thí nghiệm" nhằm canh tân Giáo Hội được
cỗ võ, song kết quả có thể mường tượng thấy đó là một Giáo Hội có thể rất khác
với Giáo Hội Chúa Kitô đã thành lập và
đã được Giáo Hội duy trì và phát triển qua gần hai ngàn năm.
Như là vị lương y định ra những mầm mống của cơn
khủng hoảng về Giáo Hội này, Đức Ratzinger ngay từ khi còn họp Công đồng và là
giáo sư thần học tại các đại học, đã "bắt bệnh" ra được những triệu
chứng và những cội rễ của sự hiểu sai đó nơi những trào lưu tư tưởng của thời
đại vốn đe dọa sự hiện hữu của Giáo Hội. Bài giảng vào Dịp Lễ An Táng Đức Gioan
Phaolô II đã trình bày tổng quát tình trạng này :
Chúng ta đã chứng kiến thấy trong những thập niên
qua bao nhiêu luồng học thuyết, bao nhiêu trào lưu ý thức hệ, bao nhiêu cách
thức suy tư… Con thuyền suy nghĩ nhỏ bé của nhiều Kitô hữu đã bị đánh đập dồn
dập bởi những đợt sóng học thuyết - bị quẳng từ cực đoan này sang cực đoan khác
: từ chủ nghĩa xã hội chiều ngang cho tới chủ trương tự do thái quá, đến độ
thác loạn ; từ chủ trương tập thể cho đến chủ trương cá nhân cực đoan ; từ chủ
trương vô thần cho đến chủ trương thần bí mơ hồ trong tôn giáo ; từ chủ thuyết
bất khả tri cho đến trào lưu tổng hợp đủ thứ về tôn giáo… Mỗi ngày lại có những
giáo phái mới được hình thành và điều Thánh Phaolô nói về sự gian xảo của con
người đã thành sự thật ; sự gian xảo ấy đã khôn khéo lôi kéo người ta rơi vào
lầm lạc (x. Ep 4,14). Sống đức tin vững chãi, dựa trên Kinh Tin Kính của các
Tông Đồ lại bị coi là cuồng tín. Trong khi đó, chủ thuyết duy tương đối, để cho
mình bị đánh dạt từ bên này sang bên kia, "bị mọi luồng gió giáo thuyết
lung lạc", lại được coi là thái độ duy nhất người ta chấp nhận theo tiêu
chuẩn ngày nay. Chúng ta đang đi tới một thời đại độc tài của chủ thuyết duy
tương đối này, khi con người không nhìn nhận bất kỳ điều gì là chắc chắn và coi
cái tôi của mình là mục tiêu tối thượng.
Và rồi hiện tượng trần tục hoá và phi Kitô giáo đã
dần dần lan tràn nơi các quốc gia Tây Âu đã phát triển. Và theo ngài, đó là do
thế giới ngày nay đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi 4 trào lưu như sau :
1.
Trào lưu tôn sùng khoa học và khoa học lịch sử
Con người ngày nay, và trong thế giới mà các Kitô
hữu cùng chung sống, đã phải chịu ảnh hưởng, sống trong một trào lưu chấp nhận
một cách không hề phê phán khoa học, chấp nhận tiếng nói cuối cùng là các kết
luận của khoa học, nhất là khoa học lịch sử trong những gì liên quan đến con
người. Để có thể nhận biết điều gì, người ta nại tới khoa học, những nghiên cứu
của các khoa học gia. Và chỉ những gì khoa học kết luận thì mới là chân lý.
Những gì mà khoa học không kiểm nghiệm được thì không còn là đúng nữa. Con
người thời đại hầu như có một sự tôn sùng hay tôn thờ khoa học cách này hay
cách khác qua những kiểu nói hay suy nghĩ : “Các
nghiên cứu khoa học cho thấy rằng…”. Muốn hiểu biết con người thì phải nại
tới những nghiên cứu của khoa học. Khoa học chiếm lĩnh suy nghĩ và hành động
của con người đến độ gần như đó là một thứ tôn giáo. Cách tiếp cận theo khoa
học được coi là cách tiếp cận đúng đắn nhất. Còn những cách tiếp cận khác,
chẳng hạn như thơ văn, tôn giáo, trong đó có những cảm thức về huyền nhiệm thì
bị coi là những cảm tình chủ quan, không có giá trị về mặt thực tại. Cũng thế,
để tìm biết về quá khứ, người ta nại tới những thành quả nghiên cứu của khoa
học lịch sử. Dường như lịch sử là nơi duy nhất mà ta có thể tìm ra được những
dữ kiện để kiểm chứng.
Khi áp dụng điều này cho Kinh Thánh, người ta có
cả một khoa học chú giải theo trường phái phê bình lịch sử. Đức Ratzinger rất
nhậy bén về Lời Chúa được chứa đựng trong Kinh Thánh. Ngài rất rành những
phương pháp của khoa chú giải. Thế nhưng, ngài chống lại một thứ chú giải gọi
là mang danh khoa học hiện đang xâm nhập vào Mầu nhiệm Lời Chúa. Kinh Thánh
không còn là Lời đem lại Sự Sống và Ánh Sáng soi dẫn cuộc đời của Giáo Hội và
con người, nhưng lại là nạn nhân để cho các vị được mệnh danh là “chuyên viên
Kinh Thánh” mổ xẻ. Việc các chuyên viên mổ xẻ Kinh Thánh và đưa ra mọi thứ giải
thích - mà rất nhiều khi là trái ngược nhau - quả là một tai hại cho Giáo Hội,
và nhất là xâm phạm đến đức tin đơn thành của các tín hữu. Các tín hữu nghe đủ
mọi thứ cắt nghĩa về Kinh Thánh, về Phúc Âm mà nhiều khi được tôn sùng như là
những “phát hiện” của các nhà chú giải. Và thế là đức tin của người tín hữu đâm
ra hồ đồ.[5] Những lối đọc, cắt nghĩa và hiểu Kinh
Thánh tách rời ra khỏi đức tin của Giáo Hội và lối hiểu của Truyền Thống chính
là điều mà Đức Ratzinger đã dầy công viết sách, giảng dậy chống lại. Như ngài
đã tuyên bố : Kinh Thánh là cuốn sách của Giáo Hội và phải được đọc và hiểu
trong sự hiệp thông với Giáo Hội. Chỉ có như thế, người tín hữu mới được hiệp
thông với Lời Chúa. Người tín hữu không cần phải chờ đợi các nhà chú giải tranh
cãi và đi đến kết luận rồi mới có thể lĩnh hội Lời Chúa !
2.
Khuynh hướng chống lại siêu hình
và thay bằng Praxis
Khởi đi từ thời Cận Đại, một trào lưu chống lại
siêu hình đã dần dần thống lĩnh tư duy của người Tây Phương và Giáo Hội không
miễn nhiễm khuynh hướng này. Đó cũng là người chị em của khuynh hướng tôn sùng
khoa học thực nghiệm nói trên. Khuynh hướng này cho rằng con người không thể
nào nhận thức được chân lý tự thân được nữa. Không có cái chân lý ngoại tại nào
để con người hiểu biết, và để lòng trí con người tuân phục. Thay cho siêu hình,
con người chủ trương Praxis, tức bằng việc làm. Praxis chính là nôi của chân
lý.[6] Cái đúng là khi cái đó thi hành được,
thực hiện được. Không thể tuyên bố điều gì là chân lý, nếu chúng ta không thực
hiện được điều đó. Orthopraxis [Thực Hành đúng] mới chứng minh được Orthodoxy
[Giáo Thuyết đúng] !
Nói như thế thì chính con người là kẻ tác tạo, làm
nên chân lý. Chân lý không có do thần linh nào tạo ra cả mà là chính con người.
Chính vì do con người chế tác ra chân lý, nên không thể có một chân lý nào gọi
là phổ quát (áp dụng cho hết mọi người) mà chỉ là những chân lý thuộc chủ thể
và chỉ có đương sự mới xác nhận mà thôi. Từ đó mà nẩy sinh ra trào lưu duy
tương đối [relativism]. Trào lưu này cho rằng mọi chân lý đều là tương đối
(relative) theo nghĩa là nó đúng cho người này, nhưng chưa chắc là đúng cho
người khác, vì mỗi người có mỗi quan điểm khác nhau, đứng từ những góc độ khác
nhau, không ai có thể bao quát hết thực tại, vì thế, cơ sở chân lý chính là bản
thân ta. Và rồi trào lưu này cổ võ một thứ "khoan dung" [tolerance],
theo nghĩa mỗi người phải "tôn trọng" cái nhìn của người khác.[7]
Trong một lối suy nghĩ thực dụng như thế, Thiên
Chúa Chân Lý không còn là nguồn mạch của chân lý, và Giáo Hội, xét như là người
được uỷ thác gìn giữ và truyền bá chân lý bị nhìn như là "một tổ chức"
cố chấp, giáo điều, không “khoan dung” trước những lập trường, lối sống khác.
Và cũng vì thế, Thiên Chúa, và Giáo Hội nữa, cũng chỉ là “sản phẩm” sáng tạo
của con người. Từ đó, người tín hữu “có quyền” không vâng nghe theo những gì
Giáo Hội dậy dỗ, bất quá, chỉ dành cho Giáo Hội một vị trí như là một tổ chức
phát biểu “một ý kiến ở giữa các ý kiến khác”. Mỗi người có quyền tổ chức đời
sống cá nhân và tập thể của mình theo như mình muốn hay theo như sự đồng thuận
của nhóm mình với nhau.
3.
Sự pha trộn
giữa Kinh Thánh và Chính Trị, Xã Hội học
Công đồng Vatican II mở ra cánh cửa với thế giới
và từ đó, thần học được khuyến khích phải lưu tâm tới những tiến bộ của khoa
học nhân văn để hiểu biết con người hơn và để công cuộc rao giảng tin mừng được
hữu hiệu hơn. Thế nhưng, cả một trào lưu tư tưởng mang tính ý thức hệ đã xâm
nhập vào tư duy của người tín hữu, của các thần học gia. Người ta đã trộn lẫn
Kinh Thánh với chính trị, với xã hội học. Và thế là đức tin đơn thành của người
tín hữu bị hồ đồ. Kinh Thánh bị “bắt cóc” và đưa vào trong các kế hoạch hoạt
động xã hội. Chẳng hạn, khoa chú giải để ý đến những truyền thống hình thành
nên bản văn Kinh Thánh, Sáng Thế Ký chẳng hạn, để rồi người giáo dân đơn thành
bị “dội bom” bằng biết bao nhiêu lý thuyết : đoạn này là do truyền thống Yavit,
đoạn kia do truyền thống Tư Tế… Những chương đầu của Sáng Thế Ký chỉ là huyền
thoại [myth]. Kết quả là người ta không còn bắt gặp sứ điệp cứu rỗi của Thiên
Chúa trong Kinh Thánh được nữa !
Quả thực, sứ điệp của Thiên Chúa qua Kinh Thánh để
con người phải hoán cải đã không được lắng nghe và chỉ dừng lại ở những tranh
luận về truyền thống này hay truyền thống khác, giải thích những đoạn văn theo
kiểu duy lý, để đánh mất đi tính mầu nhiệm cứu rỗi và lời mời gọi hoán cải của
con người. Kinh Thánh không còn đáng tin nữa !
Nhưng hơn thế nữa, thay vì lắng nghe sứ điệp để
hoán cải, nhiều nhóm Kitô hữu đã “sử dụng” Kinh Thánh để cổ võ cho một kế hoạch
xã hội, một chương trình công tác thiện nguyện nào đó. Họ nghĩ rằng cứ vạch ra
một chương trình, quản lý cho tốt thì rồi sẽ có kết quả. Thế nhưng Kinh Thánh
lại dậy ta một lối suy nghĩ và hành xử khác. Điều quan trọng không phải là ta làm gì mà là Thiên Chúa muốn ta làm gì. Nếu không hoán cải, ta không thể nào đạt
tới thế giới như Thiên Chúa mong muốn. Một Giáo Hội không hoán cải nhưng chỉ
dựa vào những chương trình nghị sự quản lý và chạy theo những yêu cầu của thế
giới thì rất sớm mất đi căn tính của mình. Hoán cải luôn luôn là con đường hẹp.
Thích ứng theo thế giới lại là con đường rộng thênh thang, nhưng đó là con
đường làm cho Giáo Hội mất đi căn tính sâu xa của mình.
4.
Ảnh hưởng tràn lan
của tư tưởng duy thực nghiệm của Âu Mỹ
Trong thế kỷ 20, con người của trời Âu Mỹ đã chìm
ngập trong lối tư duy thực nghiệm, gạt bỏ chiều kích thiêng liêng, để rồi rơi
vào tình trạng mà ta gọi là tục hoá [secularization]. Thiên Chúa, Giáo Hội
không còn là điểm quy chiếu cho suy tư và hành xử của con người nữa. Người ta
chỉ còn nhấn mạnh đến chiều ngang, tình liên đới giữa người với người. Ý thức
công bằng được nhấn mạnh, nhưng một khi gạt bỏ chiều kích tinh thần, ngay cả sự
trợ giúp liên đới đó trở thành gánh nặng cho người, con người càng lệ thuộc hơn
nữa vào những sự trợ giúp đó. Những tiến bộ con người tách ra khỏi chiều kích
tinh thần chỉ làm cho con người càng trở nên “ít người” hơn. Cơm bánh viện trợ
trở thành những hòn đá khô cứng.
Đến đây, chúng ta phải tự hỏi liệu Đức Ratzinger
có phải người chống lại trào lưu tiến bộ của loài người hay không ? Có phải là
người chống lại khoa học hay
chăng ? Thưa là không. Việc ngài chống lại khoa học khi khoa học tách ra khỏi
chiều kích tinh thần của con người, khỏi đời sống thiêng liêng. Đức Ratzinger
đã khẳng định điều đó rấr rõ rệt trong những bài thuyết giảng về tình hình Âu
Châu trước đe doạ bị cắt đứt ra khỏi cội nguồn Kitô giáo.
Chính những trào lưu trên đã dần dần tấn công vào
toà nhà Giáo Hội đã được xây dựng lâu đời trên vùng đất Âu châu, sói mòn toà
nhà này, tấn công vào giáo thuyết của Giáo Hội và vào hàng lãnh đạo của Giáo
Hội.
B. Giải thích sai Công đồng Vatican II
Hẳn chắc những trào lưu tư tưởng này đã có ảnh
hưởng đến Giáo hội và cách ta hiểu về Giáo Hội. Đức Ratzinger sớm nhận ra những
đe doạ đó, khi những trào lưu ấy đã tác động trên việc cắt nghĩa Công đồng
Vatican II qua những sai lạc sau :
1. Đối chọi văn bản và tinh thần
Công đồng Vatican II đã thổi một luồng gió hứng
khởi cho những ai đã có kinh nghiệm biến cố Công đồng. Nhân danh Công đồng, một
loạt canh tân đổi mới đã diễn ra. Nhưng Đức Ratzinger không hài lòng với tất cả
những sự thay đổi đang diễn ra này. Theo ngài, dường như có một lối suy nghĩ
nào đó không hoàn toàn chính đáng. Những người chủ trương những thay đổi trong
đời sống Giáo Hội qua nhiều chiều kích thường nại tới “Tinh thần Công đồng”.
Người ta có khuynh hướng bảo vệ lập trường của mình bằng cách nại tới “tinh
thần”, theo nghĩa tinh thần thì tốt hơn là “văn tự”. Nhưng theo Đức Ratzinger,
nhiều khi việc nại tới “tinh thần Vatican” lại “nghịch với chính Vatican”. Thực
vậy, khi nại tới tinh thần, người ta có vẻ coi như cái gì sau Vatican II (đổi
mới) là tốt đẹp, còn cái gì trước Vatican II đều là cũ kỹ, cần phải loại bỏ.
Lối suy nghĩa đó, theo Đức Ratzinger, có vẻ đặt toàn bộ Giáo Hội khởi đầu bằng
số không với Vatican II [1965], còn Giáo Hội trước đó không là gì cả. Nhưng
thực ra không phải như thế ! Tinh thần Vatican II ở đâu nếu không phải là nằm
trong các văn kiện của Công đồng ? Ta không thể tìm thấy những đổi mới nhân
danh Công đồng, nhìn đến các khủng hoảng và khó khăn xẩy ra sau Công đồng
Vatican II đã đổ thừa cho Vatican II.[8] Theo Đức Ratzinger, việc đó cũng không
chính đáng. Khủng hoảng đến là do việc giải thích và áp dụng sai lạc Công đồng.
Vì thế, phải học hỏi kỹ Công đồng, các văn kiện Công đồng và đừng nói “tinh
thần Vatican II” chung chung, mà phải xem chỗ nào Công đồng đã quả quyết điều
đó. Thực ra, Vatican II đã tổng hợp một cách thật mới mẻ Giáo Lý truyền thống
của Giáo Hội. Các văn kiện cho thấy có một sự hài hoà, rất sáng sủa, một sự
phát triển lối diễn tả giáo lý của Giáo Hội, đem lại một sức nhiệt tình thật
mới mẻ. Ở đây, không thể có chọn lựa tinh thần và văn bản (theo nghĩa là chữ
chết). Nếu chỉ chọn tinh thần mà bỏ qua các văn kiện và huấn thị của Vatican
thì giáo huấn của Vatican sẽ bị trôi nổi và sẽ là nạn nhân của những người chủ
trương “thí nghiệm các đổi mới.” Rất nhiều lối giải thích đã đi theo con đường
đó. Chẳng hạn như khi giải thích về Dân Thiên Chúa, người ta đã quá nhấn mạnh
đến Dân Thiên Chúa để rồi đối chọi “Dân” với “hàng lãnh đạo” [giáo phẩm]. Hoặc
một ví dụ khác là sự đổi mới phụng vụ. Hiến chế Phụng Vụ của Vatican II không
phải là cho phép mọi sự “chế tác” phụng vụ mà nhiều người đã chứng kiến sau
Công đồng, đến độ người ta không còn cảm thấy đây là Lễ Hy Tế của Chúa Kitô nữa
!
2.
Đối chọi giữa tiền và hậu Vatican II
Theo trào lưu “tự do” sáng chế như thế, người ta
đã đối chọi những gì sau Vatican II với những gì trước đó (Vatican I, Trento,
…). Theo đó, có một sự đoạn tuyệt với quá khứ ! Không những thế, người ta còn
nói tới “phải vượt qua Vatican II thôi, để đi tới Vatican III” ![9] Trong khi đó, nhóm bảo thủ (nếu có thể
nói được là như thế) đã coi Vatican II đã không trung thành với Vatican I,
Trento. Các thành viên Giáo Hội dường như phải đứng trước sự lựa chọn : trước
hay là sau Vatican II ?
Thế nhưng theo Đức Ratzinger, đó là một sự áp đặt
lựa chọn sai lầm. Chúng ta phải đọc lại lịch sử của Giáo Hội, đọc kỹ các văn
kiện Vatican II trước khi nói đến việc trước hay là sau Vatican II. Theo Đức
Razinger, Giáo Hội không khởi đầu lại từ thế kỷ 16, vất bỏ cả 1500 năm (như anh
em Tin Lành chủ trương) hay khởi đầu lại từ Công đồng Vatican II (như những
nhóm cấp tiến muốn thúc đẩy). Giáo Hội luôn có sự tiếp nối chứ không đứt đoạn.
Trong Giáo Hội, những yếu tố then chốt thuộc về yếu tính vẫn mãi mãi còn đó :
quyền bính phục vụ, các quyết nghị của Công đồng Trentô và Vatican I vẫn còn
đó. Chỉ có một Giáo Hội sống động qua dòng lịch sử chứ không phải là Giáo Hội
trước và Giáo Hội sau để mình chọn lựa. Nguyên trích dẫn các văn kiện của
Trento và Vatican I không thôi đã là 250 lần !
II.
HIỂU GIÁO HỘI
THEO GIÁO HUẤN CÔNG ĐỒNG
VATICAN II
Đức Ratzinger rất nhiều lần đã giảng thuyết, viết
sách và các bài báo để tìm cách giúp cho mọi người hiểu cho đúng về Giáo Hội
học theo giáo huấn của Công đồng Vatican II. Các giải thích của Ngài rất độc
đáo và rất sáng tạo, cách riêng, những chú giải đó luôn được đưa ra trong một
bối cảnh mà người ta đã lạm dụng Vatican II để phục vụ cho những ý đồ chính trị
hay cho các ý thức hệ.
Đặc biệt, Đức Ratzinger trở về chính những văn
kiện của Giáo Hội để hiểu Giáo Hội nói về mình như thế nào. Một trong những văn
kiện ngài thường xuyên quy chiếu đến là văn kiện nói về bản chất của Giáo Hội :
Hiến Chế về Giáo Hội. Ngài làm nổi bật những hình ảnh về Giáo Hội mà Công đồng
đã nhấn mạnh : Thân Mình Chúa Kitô, Dân Thiên Chúa và Giáo Hội là sự hiệp
thông.
1.
Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô
Trước hết, ngài mời gọi mọi người hãy đọc câu mở
đầu của văn kiện được đặt tên là Anh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium). Nhưng Anh Sáng Muôn Dân đây là chính Chúa Kitô chứ
không phải là Giáo Hội ! Chúa Giêsu phải là ánh sáng soi chiếu cho toàn thế
giới. Như thế, trước khi nói về Giáo Hội thì ta phải nói về Chúa Giêsu Kitô,
không thể nào khác hơn được.[10] Hay nói cách khác, Giáo Hội không thể tách rời khỏi Chúa Giêsu. Chính vì
thế, khi nói về Giáo Hội, thì khung suy nghĩ của chúng ta trước hết phải đi từ
bên trong, phải nhìn đến sự hiệp thông giữa Giáo Hội với Chúa Kitô :
Giáo Hội sống từ sự kiện này là Chúa Kitô hiện
diện trong cõi lòng chúng ta và chính ở nơi đó mà Chúa Kitô hình thành Giáo
Hội. Đó là lý do tại sao để nói về Giáo Hội thì trước tiên phải nói về Chúa
Kitô, chứ không phải là về Giáo Hội. Giáo Hội sẽ là tốt đẹp bao lâu Giáo Hội
hết sức tập trung vào Chúa Kitô . . . [11]
Giáo Hội được “hình thành chủ yếu là qua đời sống
cầu nguyện, qua những hành vi của đức tin, cậy, mến.[12] Giáo Hội không được thay cho Chúa Kitô. Chỉ khi nào sống kết hiệp mật
thiết với Chúa Kitô, thì Giáo Hội mới là Giáo Hội được. Một hình ảnh rất thánh
kinh đã diễn tả sự kết hiệp rất mật thiết này : Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô. Việc tái khám
phá hình ảnh Thân Mình để diễn tả sự liên kết mật thiết giữa Giáo Hội và Chúa
Kitô là cả một phản ứng ngược lại với cái nhìn duy cơ cấu, duy tổ chức và duy
ngoại tại của thần học tự do Tin Lành thế kỷ 19 và của thần học Công giáo nhằm
chống lại Tin Lành kể từ thời Trentô. Đức Ratzinger xác tín rằng :
Quan niệm [Thân Mình Chúa Kitô] này còn hàm ý rằng
: còn có một cái gì đó ; Chúa Kitô đã làm nên Thân Mình cho chính Ngài. Nếu ta
muốn tìm thấy Ngài và biến Ngài thành của ta, ta được trực tiếp mời gọi trở
thành một thành viên khiêm tốn, trọn vẹn và đầy đủ của Thân Mình Ngài trong thế
giới này, thì ta cũng sẽ được như thế trong cõi vĩnh cửu.[13]
Vì vậy, đây chính là ý muốn của Chúa Kitô, muốn
con người được khách quan tham dự vào Sự Sống của Ngài. Và đây chính là bí
quyết của tính cộng đoàn của Giáo hội. Chúng ta là Giáo Hội [we are Church].[14] Đúng thế, nhưng không một nhóm lẻ loi
tách riêng nào với cộng đoàn Giáo Hội phổ quát (là Thân Mình Chúa Kitô) được
phép coi mình là Giáo Hội. Muốn là Giáo Hội thì phải thì phải thuộc về Thân
Mình Chúa Kitô và thuộc về một cách toàn vẹn. Lịch sử Giáo Hội bị phân rẽ đã
cho thấy Thân Mình Chúa Kitô đã bị xúc phạm đến chừng nào và bài học lịch sử đó
vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay khi mà tính chất cộng đoàn của Giáo Hội dễ bị
lèo lái để trở thành những nhóm riêng lẻ đối chọi lại với nhau. Quả vậy, theo
Đức Ratzinger :
Tính chất cộng đoàn của Giáo Hội nhất thiết phải
kéo theo đặc tính “chúng ta”. Giáo Hội không phải là cái gì xa rời chúng ta,
chính chúng ta làm nên Giáo Hội. Không ai có thể nói “Tôi là Giáo Hội,” nhưng
chính mỗi người chúng ta có thể và phải nói “chúng ta là Giáo Hội.” “Chúng ta”
đây không đại diện cho bất kỳ một nhóm tách rời nào, nhưng là một đoàn thể hiện
diện trong toàn bộ cộng đoàn của tất cả thành viên của Chúa Kitô, dù họ đang
sống hay đã qua đời. Đó là cách mà một nhóm có thể tuyên bố một cách chân chính
: “Chúng ta là Giáo Hội.” Giáo Hội chính là đây, nơi cái “chúng ta” vượt qua
mọi biên cương xã hội và chính trị, vượt qua cả biên giới trời và đất nữa. Chúng
ta là Giáo Hội. Điều này làm nên một sự đồng trách nhiệm cũng như là khả năng
để mỗi người cộng tác với nhau.
Đức Ratzinger còn liên kết Giáo Hội Học nhấn mạnh
Thân Mình Chúa Kitô với Giáo Hội Học xây dựng trên Thánh Thể. Thực vậy, muốn
hiểu Giáo Hội cho đúng đắn thì phải liên kết với Giáo Hội đã được Chúa Giêsu
Kitô thành lập. Theo giải thích của Đức Ratzinger, Giáo Hội được thành lập
trong Bữa Tiệc Ly [mà đương nhiên, Bữa Tiệc Ly không thể nào tách rời cuộc Khổ
Nạn, Lễ Hy Sinh trên Thập Giá và Sự Phục Sinh]. Trong khi dự Bữa Tiệc Vượt Qua
với các môn đệ, Chúa Giêsu Kitô đã “vượt qua” những ý nghĩa của Bữa Tiệc Kỷ
niệm Biến Cố Vượt Biển Đỏ của Dân Do Thái để đem lại những ý nghĩa mới mẻ, hoàn
thành Giao Ước. Thân Mình Chúa Kitô được trao nộp chính là điểm quy chiếu của
Giáo Hội và Thân Mình đó được hình thành bởi Chúa Kitô như các giáo phụ đã suy
diễn rất đẹp đẽ : Từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Kitô, Giáo Hội được khai
sinh ! Cả hai khẳng định (thành lập Giáo Hội trong Bữa Tiệc Ly và Giáo Hội được
khai sinh từ cạnh sườn Chúa Giêsu được quy chiếu vào nhau) :
Bữa Tiệc Ly là khởi đầu của Giáo Hội chỉ là [cách
nhìn] từ một quan điểm khác mà thôi. Lối nói này có nghĩa là Thánh Thể liên kết
tất cả mọi con người lại với Chúa Kitô, chứ không phải chỉ liên kết chúng ta mà
thôi. Như thế, Thánh Thể làm nên “Giáo Hội”. Cùng lúc đó, lối nói này diễn tả
bản chất của Giáo
Hội : Giáo Hội hiện diện trong các cộng đoàn Thánh Thể. Thánh Lễ Giáo Hội cử
hành chính là cái làm nên Giáo Hội, bởi lẽ tự yếu tính, Thánh Lễ (Missa : được
sai phái), là việc phục vụ Thiên Chúa và vì thế, là việc phục vụ con người,
việc biến cải toàn thế giới.[15]
Vậy, nói thế nào đi nữa, thì Thánh Thể cũng chính
là Bản chất của Giáo Hội theo nghĩa khi cử hành Thánh Thể, thì một mối tương
giao độc nhất vô nhị đang được diễn ra trên toàn thế giới. Bât cứ khi nào Hy Lễ
Thánh Thể được cử hành, thì Chúa Kitô hiện diện và Ngài không hề bị chia cắt ra
thành từng thành phần. Cũng thế, lúc bấy giờ, toàn thể Giáo Hội hiện diện. Dù
đó là một cộng đoàn Giáo hội địa phương xa xôi trong vùng sâu vùng xa hay tại
tỉnh thành đông đảo, cũng chỉ là Một Cộng đoàn Giáo hội được Lời Chúa kêu gọi
đến dâng Hy Lễ Tạ Ơn. Chúa Kitô trao ban Ngài một cách trọn vẹn và Giáo Hội
cũng là Một trong Thân Mình của Chúa Kitô. Khi nào Giáo Hội cử hành Thánh Thể,
thì tuy Giáo Hội bao gồm nhiều thành viên, nhưng tất cả chỉ làm nên một.
Vấn đề là sự hiệp thông nên một trọn vẹn này có
cần phải diễn tả ra bên ngoài hay không ? Chủ trương của Chính Thống Giáo lẫn
Tin Lành chủ trương sự hiệp nhất ngoại tại không phải là thiết yếu vì không
thêm gì cho Chúa Kitô ; bất quá, sự hiệp thông ấy chỉ làm nên sự đẹp đẽ của
Giáo Hội cũng như sức mạnh của truyền giáo ! Nhưng Giáo Hội Công Giáo không
hiểu như thế. Tính duy nhất của Giáo Hội phổ quát và địa phương là cái gì thuộc
về bản chất của Giáo Hội. “Chúa Kitô khắp mọi nơi là một, vì thế, tôi chỉ có
thể có được Vị Chúa duy nhất này trong sự hiệp nhất với Ngài, trong sự hiệp
nhất với tất cả những ai làm nên Thân Mình Ngài, và những ai nhờ Thánh Thể sẽ
trở nên Thân Mình Ngài.”[16] Giáo Hội là Công Giáo tức là “sự hiệp
thông với các tín hữu ở mọi nơi và mọi thời… Công giáo tính biểu thị một ân
sủng đến từ bên trong và cùng lúc đó là một dấu chỉ hữu hình về ân sủng của
Chúa Kitô.”[17]
Một ghi nhận rất chính xác của Đức Ratzinger khi
vạch ra sự sai lầm của những nhóm người tự coi mình là Giáo Hội Chúa Kitô. Ngài
nhấn mạnh khẳng định của Lumen Gentium
khi định nghĩa về Giáo Hội :
Giáo Hội này của Chúa Kitô thực sự hiện diện trong
tất cả những cộng đoàn địa phương hợp pháp, bao gồm các tín hữu hiệp nhất với
các vị chủ chăn, các cộng đoàn ấy được gọi là các giáo hội. Qua chính tính cách
địa phương của mình, những cộng đoàn này là Dân Mới của Thiên Chúa, trong Thánh
Thần và hết lòng tín thác (1 Th 1,5).[18]
Qua vậy, không ai có quyền tự mình làm nên Giáo
Hội. Đó là một cộng đoàn, nhưng phải là một cộng đoàn “hợp pháp”. Hợp pháp ở
đây được hiểu là “hiệp nhất với chủ chăn”. Nói cách khác, bản chất của Giáo Hội
là “nhận lãnh” chứ không phải là do mình “làm ra”. Tương tự như đức tin là do
sự nhận lãnh chứ không thể do mình “chế tác” hay “tưởng tượng ra”, ta không thể
làm nên Giáo Hội nhưng là nhận lãnh
Giáo Hội nơi Giáo Hội thực sự hiện diện : Cộng đoàn bí tích của Thân Mình Chúa
Kitô chuyển động trong dòng lịch sử. Giáo Hội địa phương phải được hiểu trong
Giáo Hội dựng xây trên Thánh Thể là thế !
Thế nhưng, trong thực tế, qua dòng lịch sử, Giáo
Hội của Chúa Kitô đã bị phân rẽ ! Giáo hội học Thân Mình Chúa Kitô có vẻ hạn
hẹp (hoặc là thuộc về, hoặc là không, không có không gian lựa chọn nào khác).
Chính vì thế, Giáo Hội còn được hiểu như là Dân Thiên Chúa.
2.
Giáo Hội là Dân Thiên Chúa
Đức Ratzinger đã nhiều lần “bút chiến” trình bày
cho chúng ta thấy lịch sử của khái niệm Dân Thiên Chúa đã được đưa vào trong
văn kiện Công đồng (chương thứ 2 Hiến chế
Giáo Hội). Bắt nguồn từ việc nhận ra những giới hạn của khái niệm Thân Mình
Chúa Kitô, kể từ thập niên 1930, thần học ở Đức quốc đã đề nghị sử dụng hình
ảnh “Dân Thiên Chúa”. Cùng với hình ảnh Thân Mình Chúa Kitô rất hay để nói về
sự hiệp nhất với Chúa Kitô và với nhau, hình ảnh Dân Thiên Chúa đã được sử dụng
để diễn tả mối tương quan giữa các Kitô hữu Công giáo và không Công giáo, giữa
Kitô hữu và những người không phải là Kitô hữu. Trường hợp thứ nhất là “sự hiệp
thông” [tuy chưa trọn vẹn] và trường hợp thứ hai là “quy hướng về”.
Quả thực, theo Đức Ratzinger, Công đồng đã đưa
khái niệm “Dân Thiên Chúa” như là chiếc cầu nối trong lãnh vực đại kết. Anh em
Tin Lành và Chính Thống Giáo hơi dị ứng trước hình ảnh Giáo Hội là Thân Mình
Chúa Kitô theo nghĩa là dễ có việc tự đồng hoá Giáo Hội với Chúa Kitô và điều
đó hẳn không thể nào chấp nhận được trong đức tin của anh em Tin Lành [Giáo Hội
tôn sùng chính mình và biến mình thành bất khả sai lầm]. Giáo Hội không là Đức
Kitô ! Giáo hội thánh thiện nhưng cũng bao gồm các tội nhân, luôn cần được
thanh luyện và canh tân ![19] Như thế, khái niệm Dân Thiên Chúa đang
còn lữ hành, chưa đạt tới đích điểm quả là thích hợp !
Tính chất lữ hành trong lịch sử cũng được diễn tả
qua khái niệm này : “Giáo Hội lữ hành vốn sẽ không là mình trọn vẹn cho đến khi
các nẻo đường thời gian đã được qua đi và được trổ hoa kết trái trong tay Thiên
Chúa.” Thêm vào đó, tính chất hiệp nhất giữa mọi khác biệt, như hiệp nhất giữa
các dân tộc, giữa các tác vụ và việc phục vụ. Đây quả là một khái niệm có sức
tổng hợp các chiều kích khác nhau : một lịch sử duy nhất của Thiên Chúa gặp gỡ
và cứu chuộc con người ở mọi nơi mọi thời ; tính chất năng động, tính cách cánh
chung hướng về cùng đích chưa đạt tới ; tính tạm thời và phân hoá của Giáo Hội
vốn luôn cần phải được canh tân, cũng như sự hiệp nhất giữa các thành viên làm
nên Cộng đoàn Giáo Hội…
Tuy nhiên, rất sớm, Đức Ratzinger đã nhận ra khái
niệm rất phong phú này đã bị [ngữ tặc !] chiếm đoạt để đưa sang một lãnh vực
khác, tức là lãnh vực chính trị. Thần học giải phóng ra đời ở Châu Mỹ La tinh
vào thập niên 1970 đã dùng khái niệm “Dân” để đối lại với “Chủ Nhân” tức những
người thống trị và đối chọi Dân Thiên Chúa với hàng giáo phẩm. Thế nhưng, khái
niệm Dân Thiên Chúa trong Thánh Kinh không phải là để chuyển tải ý nghĩa giáo
dân đối lại với hàng giáo phẩm mà là miêu tả mối tương quan giữa Dân và Thiên
Chúa, mối liên kết giữa Thiên Chúa và những ai được xác định là Dân Thiên Chúa
(“Dân Ta ơi, Ta đã làm gì cho ngươi ?”). Vì thế, đó là mối tương quan chiều dọc
chứ không phải là chiều ngang. Hay nói khác đi, Dân Thiên Chúa không hiện hữu
cho mình, mà là khí cụ Thiên Chúa sử dụng để quy tụ con người lại với Ngài. Đức
Ratzinger xác quyết : một Giáo Hội chỉ hiện hữu cho mình là vô dụng.
Tuy nhiên, sâu xa hơn, Đức Ratzinger đã bắt bệnh
của loại thần học này. Người ta ít nói về Thiên Chúa mà chỉ nói về Dân. Như
thế, cuộc khủng hoảng của quan niệm về Dân này thực ra bộc lộ ra sự khủng hoảng
về chính Thiên Chúa. Một khi chúng ta đã gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, tất cả
những gì ta nói về con người rồi ra sẽ chỉ là những tương quan đấu tranh về
quyền lực. Đức Ratzinger khẳng định : “Loại đấu đá đó hẳn là đã quá đầy dẫy
trong thế gian và Giáo Hội không cần phải đi vào loại đấu trường ấy !”
3.
Giáo Hội Hiệp Thông
Hai mươi năm sau Công đồng Vatican II, một Thượng
Hội Đồng được triệu tập để đánh giá thành quả áp dụng Công đồng. Đức Ratzinger
vui sướng khi thấy những sự ồn ào về Dân Thiên Chúa hiểu theo chiều ngang đã
dần dần lắng đọng lại và các nghị phụ chú tâm vào điểm then chốt hơn. Các nghị
phụ nhấn mạnh đến sự hiệp thông. Giáo Hội chính là cộng đoàn của hiệp thông.
Như đã được trình bày nhiều lần trước đây, Đức Ratzinger cho rằng hiệp thông là
một tặng ân Thiên Chúa ban cho nhân loại. Đó là một sự hiệp thông chiều dọc, và
sự hiệp thông giữa người với người, tức sự hiệp thông chiều ngang, phải được
sinh ra, nuôi dưỡng và phát triển từ nguồn mạch đó. Sứ mệnh của Giáo Hội là
chuyển tải sự hiệp thông ấy như lời mạnh mẽ của thánh Gioan mà Công đồng và Đức
Ratzinger vui mừng xác nhận : “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi
cũng loan báo cho anh em, ngõ hầu anh em được hiệp thông [communio] với chúng
tôi ; và sự hiệp thông của chúng tôi là với Chúa Cha, và Con của Ngài, Đức
Giêsu Kitô. Và chúng tôi viết điều này là để niềm vui của chúng ta được nên
sung mãn.” (1Ga 1,3). Theo Đức Ratzinger giải thích, sự hiệp thông đem đến “niềm
vui sung mãn” này chắc chắn quy chiếu đến Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy gắn
kết với chiều kích Kitô, cứu chuộc và giáo hội thật rõ rệt : “Khi ta nâng chén
chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó
chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao ?” (1Cr 10,16). Và như thế, giáo
hội học về hiệp thông lại rất gần với giáo hội học dựa trên Thánh Thể :
Trong Thánh Thể, hiện diện trong bánh và rượu, Đức
Kitô lại trao ban chính Ngài, xây dựng Giáo Hội là Thân Mình Ngài và qua Thân
Mình Phục Sinh của mình, Ngài hiệp nhất chúng ta lại với Thiên Chúa Ba Ngôi Duy
Nhất và với nhau.[20]
Thế nhưng, như đã xẩy ra với khái niệm Dân Thiên
Chúa, khái niệm “hiệp thông” cũng đã bị tước đoạt và đưa sang một bối cảnh
khác. Một số nhà thần học lèo lái sang chiều kích hàng ngang, chỉ nói tới mối
tương quan hiệp thông giữa con người với nhau, giữa giáo hội địa phương và giáo
hội phổ quát và tìm cách xác định lãnh vực thẩm quyền mỗi bên. Thế là mọi trao
đổi về hiệp thông lại nhấn mạnh đến sự “bình đẳng” theo một nghĩa hạn hẹp là “bình
đẳng về quyền” ! Một thần học đọc theo lăng kính như thế là một loại thần học
đã bị ý thức hệ lèo lái. Phân cách và đối chọi các phe để rồi đưa đến việc phủ
nhận vai trò của hàng giáo phẩm, của giám mục, linh mục… thì đó không còn là
thần học nữa. Đức Ratzinger quả quyết, ta không được phép giải thích hình ảnh
Dân Thiên Chúa theo kiểu đó.
Năm 1992, Bộ Giáo lý Đức tin gửi một lá thư cho
các Giám mục Giáo Hội Công Giáo để giải thích thật rõ khía cạnh “hiệp thông”
này và làm sáng tỏ tương quan giữa Giáo hội đặc thù và Giáo hội phổ quát. Một
lần nữa, một số thần học gia phê phán lá thư đó như đã từng thích phê phán các
văn kiện ban hành từ Rôma. Các vị đã đọc theo lăng kính quyền bính và không
chấp nhận “Giáo hội phổ quát là thực thể có trước mọi Giáo hội địa phương về
mặt hữu thể và thời gian”.[21] Đức Ratzinger bình luận rằng những người
phê phán đó không hiểu rõ nền tảng Thánh Kinh, truyền thống Do Thái và giáo
huấn của các giáo phụ. Những lối hiểu phê phán đó đã gạt bỏ Giáo hội học của
các giáo phụ đã đành, mà còn gạt bỏ cả Giáo hội học của Tân Ước lẫn cách thức
Cựu Ước hiểu về Dân Israel. Giáo Hội không phải là cái gì tuỳ phụ, chỉ mới được
thành lập đây. Ẩn dụ “cả hai nên một xương một thịt” hay “hình ảnh vị Hôn Thê”,
“Thân Mình của Chúa Kitô” cho thấy Chúa Kitô và Giáo Hội là “hai trở nên một”,
một “Thân mình” để rồi Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự. Giáo hội phổ quát -
tức Giáo hội duy nhất, Thân Mình duy nhất, Hôn Thê duy nhất - phải có trước
những biểu hiện thường nghiệm, cụ thể của các Giáo hội địa phương đa dạng.
Cũng thế, không được đưa lăng kính quyền lực phe nhóm
để đọc văn kiện Giáo Hội. Hiến cChế về
Giáo Hội còn tiếp tục với chương thứ 4 về Người Giáo Dân và chương thứ 5 về
ơn gọi nên thánh của tất cả mọi Kitô hữu, chương 6 về ơn gọi tu trì và chiều
kích cánh chung của Giáo Hội. Một lần nữa, tính chất nội tại của Giáo Hội được
nhấn mạnh : sự thánh thiện, lòng vâng phục Ý Chúa. Chúng ta là những con người
yếu đuối, cho nên phải luôn canh tân để nên thánh. Nhưng thánh thiện còn vĩ đại
hơn là sự tốt lành về mặt luân lý. Đó là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người,
giữa con người với Thiên Chúa ; đó chính là 'lều tạm' được cắm giữa chúng ta”
(x. Ga 1,14). Hướng đến thánh thiện là mục tiêu của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu
để trở thành nơi Thiên Chúa lưu ngụ trong thế giới. Trong Giáo Hội không phải
việc chiếm chỗ trên hay dưới.
Một lần nữa, Hiến
Chế về Giáo Hội kết thúc bằng chương 8 nói về Đức Maria. Giáo Hội không
phải là một học thuyết, cũng không là một tổ chức xã hội, một cơ quan nào đó,
nhưng là ai đó. Và Maria chính là mẫu mực. “Chúng ta không chế tác ra Giáo Hội,
nhưng chúng ta phải là Giáo Hội.”
III.
THẦN HỌC GIẢI PHÓNG :
THÁCH ĐỐ VÀ LỜI
MỜI GỌI [22]
Một trong những việc mà Đức Ratzinger phải tra tay
vào làm sáng tỏ ngõ hầu Giáo Hội không rơi vào những trào lưu chạy theo thời,
là việc Ngài phân tích những sai trái của nền thần học giải phóng vốn đã một
thời sôi nổi trong Giáo Hội, cách riêng Giáo Hội tại Châu Mỹ Latinh và sau đó
lan sang Giáo Hội tại Á Châu và Phi Châu. Trước tiên, ngài vạch ra những giả
định của nền thần học này và từ đó ngài sẽ phê phán, cho thấy tại làm sao nền
thần học này không những không giải thích được giáo lý Công Giáo mà còn có nguy
cơ làm biến chất Giáo Hội.
A. Những giả định của thần học giải phóng
Đối với Đức Ratzinger, Giáo Hội phải nghiêm túc
nhìn vào thực trạng nghèo khổ và bị áp bức đã mang tính chất cơ cấu và quá phổ
biến, không chỉ giới hạn ở một vài nhóm người mà là cả một tầng lớp dân chúng
trong một xã hội hoặc cả một dân tộc trong một lục địa. Giáo Hội phải lắng nghe
tiếng kêu than của họ cũng như phải có trách nhiệm trước thực trạng này theo
đúng như sứ mệnh mà Giáo Hội đã được kêu gọi : dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp
thông với Thiên Chúa và giữa con người với nhau (LG). Giáo Hội phải góp phần vào việc nâng cao phẩm giá con người và
giải thoát con người một cách tận căn nhất để họ có thể sống xứng đáng là con
cái Thiên Chúa. Thần học giải phóng ra đời sau Công đồng Vatican II tại Châu Mỹ
La tinh đã có nguyện vọng góp phần vào sứ mệnh ấy. Tuy nhiên, loại thần học
giải phóng mà ngài muốn phê phán đây là những loại thần học đã chấp nhận lối
giải thích và giải pháp của trào lưu duy xã hội chiều ngang cách này hay cách
khác. Và ngài coi những loại thần học đó đem lại một sự đe doạ căn bản cho đức
tin của Giáo Hội ; đe doạ bởi lẽ những loại thần học ấy cũng chứa đựng một vài
chân lý nào đó nên đem lại nhiều cám dỗ hơn cho các Kitô hữu. Thần học giải
phóng đã xuất hiện trong những giả định sau :
1.
Tình trạng thần học sau Vatican
a. Thần học do Praxis :
Có một cái nhìn
cho rằng truyền thống thần học từ trước đến nay đã không còn thích hợp nữa, vì
thể cần phải có một chiều hướng thần học và tu đức hoàn toàn mới, được tìm kiếm
trực tiếp từ Kinh Thánh và các dấu chỉ thời đại.
b. Trào lưu đi với thời đại :
Trở về với thế
giới, chứ không rút lui khỏi thế giới, hãy có trách nhiệm với đời. Trào lưu này
đi đôi với việc chấp nhận và tin tưởng vào những tiến bộ khoa học nhân văn, sử
dụng khoa học như là một thứ Tin Mừng mới mà không nhận ra giới hạn cũng như
những vấn đề của chúng. Tâm lý học, xã hội học và lối giải thích duy xã hội
chiều ngang dường như được coi là có thẩm quyền về khoa học, đã được “cộng đồng
khoa học xác nhận” và vì thế sẽ đóng vai trò chủ chốt, có tiếng nói cuối cùng
trong suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
c. Chiều hướng phê phán truyền thống.
Đến từ việc trào
lưu chú giải Kinh Thánh theo nghĩa giải huyền thoại (của Bultmann và trường
phái của ông), người ta chủ trương đoạn tuyện với những gì mà truyền thống Giáo
Hội dậy và giải thích trước dây, và khuyến khích xây dựng những lối giải thích
mới.
2. Con
người truy tầm ý nghĩa cuộc đời
qua
duy lịch sử chiều ngang
Bầu khí thần học sau Vatican II lại đi kèm với
tình trạng tư duy con người thời đại đang thay đổi. Sau Thế chiến II, con người
Tây Phương đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần. Con người không còn tin vào truyền
thống tôn giáo nhưng lại không tìm ra được ý nghĩa cuộc đời để thay thế. Triết
học hiện sinh không đưa lại câu trả lời. Trong tình huống đó, duy vật lịch sử
chiều ngang đã đem lại lời hứa hẹn, một sự thúc đẩy về luân lý, dấn thân thay
đổi thực trạng thế giới. Và người trẻ đã được hấp dẫn rất nhiều trong sự trống
vắng ý nghĩa mà họ đang trải qua. Trào lưu mới về giải phóng dựa trên cơ sở của
các phân tích và giải pháp duy lịch sử chiều ngang tin rằng mình có thể đáp trả
được những thách đố luân lý về sự nghèo khổ trong thế giới cũng như thực hiện
được các ước vọng về công bằng bác ái của Kinh Thánh.
3. Thách đố của tình trạng nghèo khó và sự
áp bức :
Tình trạng nghèo
khó và áp bức mang tính chất quá phổ
biến và quá cơ cấu mà trước đến nay chưa được để ý cho đủ. Cuộc vùng lên của
giới khốn cùng đòi hỏi Giáo Hội phải có những đáp ứng cụ thể.
B. Bình luận
Chắc chắn rằng
các giải pháp thần học giải phóng đưa ra là khác nhau tuỳ theo khu vực và được
mệnh danh như là thần học chính trị, thần học cách mạng… Dù có khác nhau trong
nhiều điểm, nhưng các loại thần học này có một số nét tương đồng như sau mà Đức
Ratzinger đã vạch ra và phê phán :
1. Chú
giải Kinh Thánh theo duy lịch sử biện chứng :
Lối chú giải
Kinh thánh này đến từ lối giải thích khử huyền thoại của Bultmann, theo đó, Đức
Giêsu lịch sử phải được tách ra khỏi Đức Kitô của niềm tin. Do khoa lịch sử
hiện đại, thì Đức Kitô của truyền thống Giáo Hội thuộc về một thế giới khác với
Đức Giêsu của lịch sử. Và từ đó, ta có quyền giải thích Chúa Kitô theo những khuôn
suy nghĩ khác. Các khẳng định về Chúa Kitô trong lịch sử đã không còn giá trị
nữa cho con người thời đại (tân thời). Huấn quyền của Giáo Hội cũng bị gạt sang
một bên, không còn được giữ vai trò tiếng nói cuối cùng trong việc công bố chân
tính của Đức Kitô.
Chân trời giải
thích đã thay đổi qua khoa chú giải, thì dung mạo của Đức Giêsu cũng phải được
giải thích lại. Ta phải giải thích lại dung mạo đó sao cho phù hợp với con
người thời đại.
2. Thực tại tôn giáo bị chính trị hoá
Theo những người
chủ trương thần học giải phóng đó, thời đại hiện nay đang bị phân rẽ hoặc theo
chủ trương tư bản hoặc theo chủ trương của Marxismus. Kinh Thánh đã cung cấp
cho chìa khoá để giải thích sự phân rẽ và đấu tranh đó : Người nghèo của Thiên
Chúa. Người nghèo đấu tranh lại người giầu và Thiên Chúa đứng về phía người
nghèo khổ. Cuộc đấu tranh đó mang tính giai cấp và Giáo Hội không được chọn lập
trường trung lập. Và nếu Giáo Hội có can thiệp trước những lối giải thích sai
lệch ấy, Giáo Hội bị mang tiếng là đi với những người giầu có, giới bóc lột và
như thế là chống lại những người nghèo khổ, chống lại chính Đức Giêsu là người
đã chọn rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, giải thoát những ai đang bị cầm
tù.
3. Khái
niệm Dân Thiên Chúa
đã
bị tách ra khỏi nguyên cảnh
Sự đối chọi giữa
người dân và giới bóc lột, giữa người nghèo và giới thẩm quyền trong Giáo Hội
chắc chắn sẽ xung khắc, và chủ thể để chú giải Kinh Thánh không phải là Huấn
Quyền mà chính là cộng đoàn : Cộng đoàn đọc Kinh Thánh theo kinh nghiệm hiện
tại của mình và áp dụng Kinh Thánh vào cuộc sống hiện tại (tức Praxis). Hàng
giáo phẩm nào không đi với “nhân dân” có nghĩa là đứng về phe áp bức. Dân Chúa
được sử dụng để đối lại với phẩm trật. Và cũng vì thế, ai muốn đứng về phe Dân
Chúa thì phải chọn lập trường chống lại giáo hội của hàng giáo phẩm.
4. Lịch Sử Cứu Độ thành Lịch sử chính trị
Cũng thế, lịch
sử cứu rỗi qua đó cuộc đấu tranh thiện ác đã được vượt thắng bởi sự phục sinh
của Đức Kitô và đang hướng đến ngày Ngài lại đến đã được biến thành lịch sử
cuộc đấu tranh giữa giai cấp nghèo khổ và giai cấp giầu có. Chính lịch sử mới
giải thích Kinh Thánh. Vì thế, không có chân lý nào bó buộc vĩnh viễn. Những
giáo huấn của Giáo Hội về đức tin và luân lý bị coi là phản nghịch sự tiến bộ
của loại người.
Đức tin vào Thiên Chúa bị biến thành
niềm tin vào sự tiến bộ của con người và cố gắng trung thành góp phần vào sự
tiến bộ ấy. Nói khác đi, đó là sự trung thành với lịch sử. Áp dụng vào Chúa
Kitô, biểu thức đức tin vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là con người đã được “viết
lại” như sau : Đức Giêsu là Chúa, nhưng Thiên Chúa duy nhất và chân thật như
thế là Đấng đã tỏ mình ra trong lịch sử và là hòn đá vấp phạm nơi Đức Giêsu, và
nơi người nghèo khổ là những người nối dài sự hiện diện của Ngài. Theo chủ
trương đó, giáo lý chính thống phải tuyên xưng cả hai điều này. Đức Cậy trở thành “hy vọng vào tương lai”
qua sự dấn thân vào lịch sử cuộc đấu tranh không khoan nhượng của giai cấp quần
chúng (dân) và giai cấp thống trị. Và Đức
ái trở thành “chọn lựa người nghèo”, tức là đi với quần chúng đối lại giai
cấp bên trên. Thần học giải phóng buộc phải chọn lựa, không chấp nhận lập
trường gọi là “trung lập” và coi đó là lối giải thích Thánh Kinh đúng đắn hơn
cả.[23]
Ngoài ra, thực
tại nền tảng Chúa Giêsu rao giảng là Nước
Thiên Chúa được giải thích theo hành động : hoạt động trong thực tại lịch
sử để biến thế giới thành Nước Thiên Chúa. Cuộc Xuất Hành trong Cựu Ước, Mầu Nhiệm Thánh Thể được cử hành như cuộc
giải phóng theo nghĩa Praxis. Ơn cứu độ được hiểu như là giải phóng [khỏi áp
bức chính trị & kinh tế]. Và chân lý nằm ở chỗ Praxis chứ không phải lý
thuyết xuông.
Đức Ratzinger
bình luận : quả thực, trong khoảng thời gian trước và sau Công đồng, giáo huấn
tu đức đã nói nhiều đến việc phải vượt thắng nhị nguyên hồn xác, vật chất &
thiêng liêng, siêu nhiên và tự nhiên. Nhưng một khi loại bỏ tính lưỡng diện
này, thì chỉ còn có lịch sử trần thế đây và thực tại chính trị kinh tế mà thôi.
Như vậy, con người thế chỗ cho Thiên Chúa để dựng xây thành đô trần thế này.
Thần học giải phóng nhằm đưa ra một nhãn giới toàn diện giải thích mọi thực tại
mang theo “hơi hướng” của Kitô giáo. Rốt cuộc nếu không khéo, nếu không vạch ra
cho rõ biên giới, thì Kitô giáo trở thành khí cụ trong tay của lực lượng gọi là
cải cách của thời thế. Không trách mà các nhà thần học và cả linh mục, tu sĩ
say mê với lối chú giải này.
Đức Ratzinger
gọi đó là một khủng hoảng của thần học và theo ngài, ta chỉ có thể vượt thắng
được khủng hoảng này nếu chúng ta làm thế nào để luận lý của đức tin trở thành
đầy thuyết phục, nghĩa là đức tin đem lại một câu trả lời còn tốt hơn. Và vì
vậy, ta phải động viên toàn bộ tư duy, trải nghiệm sống của đức tin, lý giải và
kể cả những hành động. Đây là nhiệm vụ của toàn thể Giáo Hội, mỗi người theo
bổn phận Kitô hữu của mình.
Cũng theo ngài,
rõ ràng qua khủng hoảng này, chúng ta chứng kiến được một sự thiếu hoán cải
trong Giáo Hội, thiếu một đức tin thật tận căn. Chỉ có gia tăng hoán cải và đức
tin, ta mới có được tầm nhìn của Thiên Chúa và nhờ đó, các mục tử lấy được
những quyết định đáp trả được những vấn nạn gây ra từ đó.
KẾT LUẬN
Để trả lời cho
câu hỏi Giáo Hội là gì, và ta phải làm gì để Giáo Hội ngày càng trở nên Giáo
Hội hơn, Đức Ratzinger quả quyết cho chúng ta : Giáo Hội không phải là của chúng
ta mà là của Chúa Giêsu Kitô. Vì
vậy, việc canh tân Giáo Hội không phải là cứ nhằm ở những sinh hoạt bên ngoài,
lo thay đổi những cơ cấu, những thể chế, những biện pháp. Năng động lực của
Giáo Hội chính là đời sống đức tin, đời sống bí tích. Cuộc canh tân thực sự
phải khởi đi từ bên trong lòng Giáo Hội chứ không phải là những chế tác bên
ngoài. Mà cuộc canh tân như thế không thể nào diễn ra được nếu như cái tôi của
mình lấn át đi Chúa Kitô. Làm thế nào để việc ta tự xoá mình đi càng nhiều càng
tốt, và việc ta thuộc về Chúa Kitô càng ngày càng hiển hiện hơn. Giáo Hội cần
thiết cho nhân loại đó là vì Giáo Hội là khí cụ chuyển ơn thánh hoá, là do sự
thánh thiện của Giáo Hội chứ không phải do tài quản trị. Nếu như thế, đó phải
là một Giáo Hội được bắt nguồn và được xây dựng trên Thánh Thể, trên Hy Lễ Tự
Hiến của Chúa Kitô và để Hy Lễ ấy chuyển hoán từng thành phân Dân Chúa thành
Thân Mình của Chúa Kitô.
Tài liệu tham khảo
-
Cardinal Joseph Ratzinger. Le Sel de
la Terre. Paris : Le Cerf, 1997. Bản Dịch : Muối Cho Đời. Kitô giáo và
Giáo Hội Công Giáo Trước Ngưỡng Cửa của Ngàn Năm Thứ Ba. Thời Sự Tôn
Giáo.
-
Nichol, Aidan O.P. The Theology of
Joseph Ratzinger. Great Britain : Billling & Sons Limited, 1988
-
Rubert Shortt. Benedict XVI. London : Hodder &
Studghton, 2005. [Một tập sách “phê phán” nhưng cũng chứa đựng nhiều chất liệu
tích cực về Đức Ratzinger].
-
Wikipedia : (Bách Khoa Tự Điển trên Internet chứa đựng rất nhiều
chỉ dẫn các trang Web về Bút Tích của
Đức Ratzinger và những bài bình luận).
-
Ratzinger, Cardinal Josef. Liberation Theology. Personal Notes, 1984.
-
Benedict XVI, Close& Up Personal, Seminar. Manila : Don Bosco
Center of Studies, 2007. DVD Format : gồm ba bài tham luận về Kitô học, Thánh
Thể-Phụng Vụ và Giáo Hội theo Đức Ratzinger.
-
Pope Benedict XVI, The Origins of the Church, (Our Sunday
Visitor, Inc, USA, 2007)
[1] X. Tài liệu tham khảo cuối bài viết.
[2] Ratzinger, Joseph. Milestone : Memoirs, 1927-1977 (San Francisco : Ignatius Press, 1998).
[3] Hồng Y J Ratzinger. Muối Cho Đời, 159.
[4] Sđd., 189.
[5] Báo Times đã có lần đăng bài báo của "chuyên gia Kinh Thánh" Crossan, cho rằng xác của Đức Giêsu đã bị chó "xơi' mất trong thung lũng Gehenna. Những nhà chú giải theo Jesus Seminar cho rằng toàn bộ Phúc Am chỉ là sự "sáng tạo" của nhóm môn đệ đầu tiên, không hề có căn cứ lịch sử nào. Họ cho in cả bộ Năm (5) cuốn Phúc Am, trong đó có cả cuốn Ngoại Thư Tin Mừng Thomas (mà Truyền Thống Công Giáo vẫn coi là ngoại thư do ảnh hưởng của Ngộ Giáo).
[6] "Don't tell me, show me" : đây là tiêu chuẩn để nhận biết chân lý, xem chân lý có tạo nên được cái gì khác biệt hay không.
[7] Đức Ratzinger đã nhiều lần vạch cho thấy thái độ gọi là "khoan dung" đó, bất chấp chân lý khách quan đã dần dần trở thành một thứ độc tài, không chấp nhận ai đó có chủ trương chân lý phải là phổ quát, không lệ thuộc vào cá nhân ta.
[8] Vụ Đức Giám mục Lefèbre và Huynh Đoàn Pio X.
[9] Sđd., 296.
[10] Trong một bài giảng, Đức Ratzinger đã thuật lại câu chuyện cuộc bàn luận về Giáo hội trong Công đồng Vatican II thật sôi nổi cho đến lúc một nghị phụ phát biểu rằng cho đến lúc ấy, các vị chỉ bàn đến Giáo Hội mà chưa nói về Thiên Chúa, về Chúa Kitô ! Quả là một nhận định đúng lúc khiến mọi người phải thinh lặng suy nghĩ.
[11] Josef Ratzinger, The Ecclesiology of Vatican II [Giáo Hội Học Theo Công Đồng Vatican II], Bài Thuyết Trình tại Hội Nghị Giáo Phận Aversa, Italia, 2001.
[12] Sđd.
[13] Sđd.
[14] Đức Ratzinger liên hệ điểm này với phong trào "We Are Church", tổ chức vận động và đi thu nhận chữ ký phản đối Roma và đề nghị những thay đổi quyết liệt : cho nữ giới làm linh mục ; linh mục được kết hôn ; cho phép ngừa thai, ly dị, bầu cử giám mục, linh mục quản xứ v. v. . Tại hai quốc gia này, trong vòng khoảng 3 tháng. phong trào đã thu nhận được 500.000 chữ ký trong vòng khoảng 3 tháng. Tại Hoa Kỳ, sau 6 tháng và gia hạn thêm 1 năm, phong trào thu nhận hơn kém 15.000 chữ ký (trong số 66.000.000 người Công Giáo !). Phong trào "We Are Church" tuyên bố đã thất bại tại Giáo Hội Hoa Kỳ và than phiền : Giáo Hội Hoa Kỳ bảo thủ !
[15] Sđd.
[16] Sđd.
[17] Sđd.
[18] Sđd.
[19] Ratzinger giải thích "sự thánh thiện" ở đây là nói đến sức mạnh tự cội nguồn của Giáo Hội có thể làm cho các thành viên Giáo Hội nên thánh ! (x. Josef Ratzinger, Đức Tin Kitô Giá Hôm Qua và Hôm Nay, Nd. Athanasio Nguyễn Quốc Lâm, Đàlạt : CV Minh Hoà, 2009)
[20] Sđd.
[21] Sđd.
[22] Cardinal Josef Ratzinger, Liberation Theology, [ Personal Notes], bài viết trước khi Bộ Giáo Lý Đức Tin ban hành Huấn thị về Thần Học Giải Phóng năm 1984.
[23] Dĩ nhiên, Giáo Hội phục vụ người nghèo và Thiên Chúa quả là đấng lắng nghe người nghèo. Nhưng giải thích "người nghèo" theo nghĩa xã hội chiều ngang đó và đồng hoá người nghèo trong Kinh Thánh với nhóm đấu tranh quyền lực quả là điều không đúng. Xin xem Thông điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô CVI, Thiên Chúa là Tình Yêu, phần II.