Thánh
Giuse Trong Các Tác Phẩm Ngụy Thư Tân Ước
(catechesis.net)
December 22, 2020
Phan
Tấn Thành
Các
đoạn Tin mừng không cung cấp một chi tiết nào về cuộc đời của thánh Giuse: sinh
năm nào, ở đâu? đính hôn với bà Maria lúc nào? qua đời hồi nào? chôn cất ở đâu?
Đàng
khác, chúng ta thấy nhiều bức tranh vẽ hình thánh Giuse đầu tóc bạc phơ, hoặc
cầm cành hoa huệ, hoặc nhắm mắt lìa trần với Đức Mẹ và Chúa Giêsu đứng bên
cạnh. Các dữ kiện này dựa vào tài liệu nào?
Câu trả
lời vắn tắt cho những câu hỏi vừa rồi là: những chi tiết về cuộc đời thánh
Giuse dựa theo những lưu truyền dân gian, được ghi lại trong các tác phẩm ngụy
thư Tân ước. Trước khi đi vào chi tiết, cần xác định ý nghĩa của từ ngữ “ngụy thư”.
I. Khái
niệm
Theo
nguyên ngữ Hy Lạp, apokryphos chỉ
có nghĩa là “bí mật, giữ kín”, và được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Lúc đầu
nó được dùng để áp dụng cho toàn thể Sách thánh: cần phải cất giữ các tác phẩm
này, không nên để lọt vào tay người ngoại (Ý nghĩa này có lẽ do ảnh hưởng của
các nhóm ngộ đạo: chỉ có ai đã được khai tâm thì mới được đọc các sách thiên
khải). Sau đó, nó được áp dụng cho những sách chỉ nên đọc tư, chứ không được
phép đọc chính thức trong các buổi cử hành phụng vụ. Đến khi sổ bộ quy thư (libri canonici) được xác
định, thì nó ám chỉ những sách nào không thuộc quy thư, vì thế cấm không được
đọc công khai. Từ đó, người ta dịch là “ngụy thư” (đối lại với “quy thư”), và
mang một ý nghĩa xấu. Thực ra, các ngụy thư không hẳn lúc nào cũng xấu. Một
quyển sách có thể được xếp vào ngụy thư bởi vì không phải là do các Tông đồ
viết, mặc dù nội dung của nó rất lành mạnh: thí dụ như “thư của Clêmentê”, “thư
của Barnabê”. Lúc đầu có giáo đoàn coi đó như là quy thư và sau đó đã loại ra
khỏi sổ quy thư (và trở thành ngụy thư). Ngược lại, sách Khải huyền của thánh
Gioan từng bị coi là ngụy thư nhưng sau đó được xếp vào quy thư. Ngày nay, các
học giả đã dùng nhiều tiêu chuẩn khác nhau để phân loại các apocrypha.
– Một
số tác phẩm ra đời vào thời các thánh Tông đồ, đã được vài giáo đoàn nhìn nhận
làm Sách thánh nhưng sau đó bị gạt ra bởi vì không do các Tông đồ viết. Những
tác phẩm này được đặt tên là Văn
chương Kitô giáo nguyên thủy, đó là: sách Điđakhê, thư Clêmentê,
sách Mục tử của Hermas, thư của Barnabê. Ngược lại, một tác phẩm tuy mang danh
một tông đồ nhưng sau khi bị lật tẩy thì đương nhiên bị xếp vào hàng ngụy thư,
chẳng hạn: thư thứ ba của thánh Phaolô gửi Côrintô, hoặc thư gửi Laođikia.
– Đa số
các ngụy thư ra đời sau thế kỷ II, dựa theo thể văn của các tác phẩm Tân ước.
Mục tiêu của các soạn giả khác nhau. Đôi khi vì muốn thoả mãn tính tò mò, bằng
cách thêu dệt nhiều phép lạ. Đôi khi muốn biện minh cho một học thuyết nào đó
(chẳng hạn chủ trương của nhóm ngộ đạo, ảo nhân thuyết). Các tác phẩm này được
phân ra bốn loại: Tin mừng, Hoạt động tông đồ, Thư, Khải huyền. Nhiều tác phẩm
chỉ được biết qua sự trích dẫn của các giáo phụ chứ không còn được lưu lại
nguyên bản.
A. Tin
mừng
Tuy
được gom một loại mang danh là “Tin mừng ngụy thư”, nhưng giá trị của chúng
khác nhau xét về lịch sử cũng như đạo lý.
1/ Một
số tác phẩm ra đời đồng thời với các Tin mừng quy điển, và dĩ nhiên là được xếp
vào hạng nhất xét về giá trị lịch sử. Trong tiến trình biên soạn các sách Tin
mừng, các thánh sử đã sử dụng những nguồn tư liệu đã được thu thập trước đó,
gồm các lời nói (đặc biệt là các dụ ngôn). Vài tác giả đương thời cũng sử dụng
những nguồn tư liệu đó và soạn ra tác phẩm song hành. Các sử gia đặt tên cho
chúng là agrapha,
(những lời nói của Chúa Giêsu). Thường các lời nói được thuật lại trong bối
cảnh của một cuộc đàm thoại với các môn đệ, chẳng hạn như: Tin mừng thánh Tôma, thu
thập 114 câu nói của Chúa Giêsu, hoặc do tự Người dạy hoặc để trả lời cho câu
hỏi mà môn đệ đặt ra; hoặc Cuộc
đàm đạo của Chúa Cứu thế, thuật lại cuộc đàm đạo của Chúa Phục sinh
với ông Giuđa và ông Matthêu, với thể văn tương tự như cuộc đàm đạo tại nhà
Tiệc ly theo Tin mừng thánh Gioan.
2/ Hạng
thứ hai sử dụng các tư liệu vừa nói để soạn có vẻ những tác phẩm biện minh cho
chủ thuyết nào đó, chẳng hạn hoặc phủ nhận nhân tính của Đức Giêsu (thuyết ảo
nhân), hoặc phủ nhận thiên tính của Người (các Tin mừng của người Do Thái).
3/ Hạng
thứ ba chỉ mang danh là “Tin mừng” theo nghĩa là kể lại cuộc đời của Chúa
Giêsu, nhưng mục tiêu chúng không còn là loan báo Tin mừng cứu độ cho bằng thoả
mãn tính tò mò. Nội dung xoay quanh hai giai đoạn đặc biệt của cuộc đời của
Chúa Cứu thế, đó là thời thơ ấu và hồi tử nạn Phục sinh.
a) Một
nhóm chú trọng đến nguồn gốc gia thế và thời thơ ấu của Chúa. Nổi tiếng nhất
là Tin mừng tiên khởi
thánh Giacôbê, mà chúng tôi sẽ trở lại dưới đây. Tác phẩm này ra
đời vào khoảng năm 150, và được quảng bá trong nhiều cộng đoàn phụng vụ bên
Đông phương. Cùng với tác phẩm “Cuộc từ trần của đức Maria” (Transitus Mariae) nó đánh
dấu khởi điểm của lòng tôn kính đức Maria trong các thế kỷ đầu tiên của Giáo
hội. Nói chung, các Tin mừng thơ ấu thích kể lại các phép lạ xảy ra lúc Chúa
Giêsu ra đời, lúc tị nạn bên Ai cập và thời niên thiếu, chẳng hạn Tin mừng thơ ấu của ông Tôma (khác
với Tin mừng thánh Tôma vừa nói trên).
b) Một
nhóm chú trọng đến cuộc Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu: Tin mừng ông Nicôđêmô, Tin mừng thánh
Phêrô.
B. Công
vụ các Tông đồ
Nếu
muốn theo sát nguyên bản thì phải dịch là “Những hoạt động của các Tông đồ” (Actus apostolorum), chứ
không phải là “Công vụ” (Acta).
Dù sao, tác giả không chỉ đóng vai trò một ký giả ghi chép các biến cố đã xảy
ra trong Hội thánh nguyên thủy nhưng còn muốn trình bày một thần học về đường
hướng truyền giáo của Hội thánh.
Các tác
phẩm ngụy thư không còn duy trì viễn ảnh thần học, nhưng chỉ thích kể các phép
lạ, có vẻ như muốn đề cao các Tông đồ như là các “siêu nhân” hoặc ít là “người
hùng” của Kitô giáo. Các tác phẩm này ra đời vào thế kỷ II. Các giáo phụ nhiều
lần nhắc đến các “Hoạt động
của ông Phêrô” (soạn khoảng năm 180-190), của ông Phaolô (khoảng
185-195), Anrê, Gioan và Tôma. “Hoạt
động của ông Tôma” được duy trì trọn vẹn hơn cả trong bộ sưu tập 5
cuốn, lưu hành trong nhóm Manikê vào cuối thế kỷ IV.
C. Các
thư
Ngoài
các thư của thánh Phaolô được nhận vào sổ quy thư, còn một số thư khác được lưu
hành giữa các giáo đoàn, chẳng hạn: thư thứ Ba gửi Côrintô, thư gửi Laođikia,
thư gửi Alêxanđria.
D. Khải
huyền
Ngoài
các sách Khải huyền mang danh các thánh Tông đồ (Phêrô, Phaolô, Tôma,
Stêphanô), tại vài nơi còn có các tác phẩm của đạo Do thái, chẳng hạn: Sự thăng thiên của ông Isaia.
Nên
biết là vào thời các giáo phụ, các tác phẩm vừa kể được đánh giá khác nhau. Có
những tác phẩm được trích dẫn trong các bài giảng ngang hàng với các quy thư
(vào lúc mà sổ quy thư chưa thống nhất). Có những tác phẩm khác đã bị gạt bỏ
bởi vì chứa đựng đạo lý sai lầm hoặc bởi vì chỉ lưu hành trong các nhóm lạc
giáo. Dưới phương diện lịch sử, giá trị của các tác phẩm này tuỳ thuộc vào
những nguồn tư liệu, nghĩa là dựa theo những sự kiện có thể kiểm chứng được, hoặc
do óc tưởng tượng bày ra, đó là chưa kể trường hợp sao chép.
II.
Những ngụy thư liên quan đến thánh Giuse
Trong
số những nguỵ thư nói đến thánh Giuse, ta có thể kể[1]:
1/ Hoạt động của ông Ponxiô Pilatô
Từ giữa
thế kỷ II, thánh Giustinô đã nói đến tác phẩm này. Sang các thế kỷ sau, tên của
nó cũng được ông Tertullianô cũng như ông Eusêbiô Cêsarêa nhắc đến, nhưng không
ai biết nội dung ra sao. Tác phẩm được lưu lại ngày nay là một phiên bản mới,
được soạn vào thế kỷ IV, do một tác giả tự xưng là Anania. Tác phẩm mang tính
cách hộ giáo, nhằm bênh vực Chúa Giêsu trước những lời tố cáo của dân Do thái
trước toà tổng trấn Pilatô.
Khi bàn
về gia đình của Chúa Giêsu, chúng ta biết được những sự đàm tiếu và vu khống
của người Do thái thời ấy[2]: họ tố cáo đức Giêsu là con hoang. Phần
biện hộ chứng minh rằng đức Maria đã lập giá thú với ông Giuse, và hai ông bà
là người đức hạnh kính sợ Chúa.
2/ Tin mừng thánh Philipphê
Tác
phẩm này ra đời khoảng đầu thế kỷ III, trong khung cảnh hộ giáo, chống lại lạc
thuyết ngộ giáo (không chấp nhận rằng Chúa Giêsu có một thân xác con người).
Tác giả
khẳng định rằng đức Giêsu có thân xác con người. Đức Giêsu có hai người cha:
Cha trên trời, và cha dưới đất là ông Giuse. Ông Giuse làm nghề thợ mộc. Ông
trồng nhiều cây trong vườn để lấy gỗ. Gỗ thập giá được lấy từ vườn đó, và nhờ
cây thập giá mà cửa thiên đàng đã được mở cho nhân loại.
Dù
khẳng định rằng ông Giuse đã cấp thân xác con người cho đức Giêsu, tác giả vẫn
bênh vực sự trinh khiết của Đức Maria.
3/ Tin mừng thánh Phêrô
Ông
Origène (In Mattheum 10,17:
PG 13, 876-877) và Eusêbiô Cêsarêa (Historia
Ecclesiastica: PG 20, 217.269-271) nhắc đến “Tin mừng thánh Phêrô”,
nhưng bản văn không được tồn tại đến nay. Nội dung tường thuật cuộc Tử nạn và
Phục sinh của Chúa Giêsu. Vào lúc Chúa bị treo trên thập giá, tác giả không đả
động gì đến bà thân mẫu hoặc các phụ nữ khác, ngoại trừ cô Maria Magđala và các
anh em của Chúa. Theo ông, các anh em này là con mà ông Giuse đã có với đời vợ
trước. Eusêbiô cho biết giám mục Serapion Antiokia đã liệt sách này vào loại
lạc đạo.
4/ Tin mừng tiên khởi thánh Giacôbê
Tựa đề
“Tin mừng tiên khởi” (hay “Tiền Tin mừng”: Protoevangelium) do ông Guillaume Postel đặt
ra khi xuất bản năm 1522 tại Bâle, dựa vào tên của tác giả, tự xưng là Giacôbê,
một người anh cùng cha khác mẹ với Chúa Giêsu. Tựa đề muốn nêu bật là tác phẩm
này ra đời trước các quyển Phúc âm chính quy. Thực ra các thủ bản cổ điển mang
tựa đề chính xác hơn “việc sinh hạ đức Maria” (De Nativitate Mariae = Gennêsis Marias) bởi
vì nói nhiều đến đức Maria. Tác phẩm này được viết bằng tiếng Hy-lạp vào hậu
bán thế kỷ II, và đã được ông Origène nhắc đến.
Mục
tiêu biên soạn có lẽ nhằm chống lại những vu khống của người Do thái về thân
thế của Chúa Giêsu, và đề cao việc cưu mang trinh khiết của đức Maria. Tác giả
đưa ra một nhân chứng là thánh Giacôbê, một nhân vật được người Do thái kính
nể.
Phần
lớn tác phẩm dành để nói tới nguồn gốc lai lịch của đức Maria; còn thánh Giuse
xuất hiện vào lúc đức Maria thành hôn và mang thai. Nội dung gồm 24 chương
ngắn, có thể chia làm 3 phần. Phần thứ nhất (gồm 16 chương đầu), kể lai lịch,
thời thơ ấu đức Maria cho tới lúc kết hôn với ông Giuse. Phần thứ hai (từ
chương 17 đến 21) thuật lại những phép lạ chung quanh cuộc sinh hạ Chúa Giêsu.
Phần chót (ba chương cuối từ 22 đến 24) kể chuyện vua Hêrôđê tàn sát các thiếu
nhi ở Bêlem.
Tác
phẩm mở đầu với cảnh ông Gioakim, một nhà phú hộ và quảng đại, bị một người tên
là Rubel chế diễu vì không có con, và không muốn cho ông dâng lễ vật như các
tín hữu khác. (Nên biết là xã hội Do thái coi đôi vợ chồng không có con là bạc
phước). Ông Gioakim buồn tủi vô hạn, vì thế đã rời bỏ nhà cửa và vào nơi hoang
địa, ăn chay 40 đêm ngày, với lòng dốc quyết rằng nếu Chúa không đến viếng thăm
thì ông sẽ không trở về nhà. Bà Anna, ở nhà cô quạnh, cũng buồn rầu và than
khóc số phận hiếm muộn của mình chẳng khác gì thân phận góa bụa. Bà đã than
khóc thảm thiết, vào một ngày lễ của dân tộc, một dịp hân hoan của toàn dân.
Trông lên trời thấy những đàn chim bay nhảy, nhìn xuống nước thấy đàn cá bay
lội, bà lại càng tủi thân, bởi vì chúng được Thiên Chúa chúc phúc với hậu duệ
đông đảo, còn mình thì giống như mảnh đất khô cằn không có sức sống.
Giữa
lúc tuyệt vọng như vậy thì một thiên sứ hiện đến với bà Anna, báo tin cho biết
Thiên Chúa đã nhậm lời của bà, và sẽ ban cho bà một hậu duệ sẽ được muôn đời
nhắc đến. Nghe tin đó, bà Anna liền hứa rằng dù sinh con trai hay con gái thì
cũng sẽ dâng nó cho Thiên Chúa để phục vụ nhà Chúa trót đời. Thiên sứ cũng hiện
ra với ông Gioakim và loan tin như vậy. Ông liền đứng dậy trở về nhà, và truyền
giết 10 con chiên, 12 con bò tơ để dâng lễ tạ ơn Chúa, và giết 100 con dê để
đãi cả làng.
Câu
chuyện vừa rồi nhắc lại những cuộc sinh hạ kỳ diệu nhờ sự can thiệp của Thiên
Chúa mà ta gặp thấy trong Cựu ước, chẳng hạn như ông Abraham (với bà Sara son
sẻ), ông Samson cũng được sinh ra trong hoàn cảnh tương tự, hoặc như ông
Samuel. Phép lạ không chỉ chứng tỏ bàn tay đặc biệt của Thiên Chúa, nhưng nhất
là cho thấy sứ mạng dành cho người con sắp sinh ra. Tác giả sách Tiền Tin mừng
thánh Giacôbê cũng mang một não trạng đó, nghĩa là ông muốn nêu bật vai trò và
sứ mạng mà Chúa sẽ dành cho đức Maria.
Sau khi
sinh con được 14 ngày, bà Anna đặt tên cho cô bé là Maria, một danh tánh khá
quen thuộc trong dân Do thái. Khi cô bé tròn một tuổi, song thân mời các tư tế
và toàn dân dự lễ cai sữa; đây là cơ hội để bà Anna dâng lời ca tụng Thiên Chúa
vì đã đoái nhìn đến mình và cất đi sự ô nhục vì son sẻ. Đến khi cô bé lên ba
tuổi, thì song thân mang lên đền thờ. Cô bé hí hửng ở lại đó chứ không đòi theo
bố mẹ trở về nhà.
Khi cô
lên 12 tuổi và phải rời đền thờ, thì hội đồng các tư tế bàn định chuyện kết hôn
qua một thủ tục diệu kỳ. Nhờ ơn trên soi sáng, thượng tế hô hào các chàng trai
tới, mỗi người mang một cái que và đặt trong đền thờ. Sáng hôm sau, thượng tế
vào đền thờ cầu nguyện thì thấy các que còn y nguyên như trước, và mỗi chàng
lại vác que về nhà. Thế nhưng còn sót lại một que của ông Giuse và chủ nhân
được gọi tới; khi ông Giuse vừa lấy lại cây que của mình thì một con chim bồ
câu thoát ra từ cây que và đáp xuống trên đầu của ông Giuse. Thật đúng là dấu
lạ! Nhưng ông Giuse không dám nhận cô Maria, viện cớ là mình đã già lại phải
nuôi nấng một đàn con. Thầy cả phải doạ rằng nếu ai không tuân theo ý Chúa thì
sẽ bị trời phạt; ông cụ sợ quá đành rước Maria về nhà.
Đưa cô
về nhà rồi, ông Giuse ra đi kiếm việc làm (ông làm nghề xây cất). Đang khi đó,
thiên thần hiện đến báo tin cho đức Maria về việc thụ thai và sinh hạ Chúa
Giêsu. Sáu tháng sau, ông Giuse trở về nhà thấy bạn mình mang bầu. Khỏi nói ai
cũng đoán được tấn bi kịch diễn ra thế nào. May thay, đến đêm thiên thần hiện
ra giải thích đầu mối nguyên do. Nhưng đó mới là chuyện nội bộ giữa hai
người; đến lượt hàng xóm và nhất là vị Thượng tế trong đền thờ cũng trách móc
ông Giuse vì đã xâm phạm tiết hạnh của bà Maria[3]. Cả ông Giuse lẫn
cô Maria đều hết sức thanh minh nhưng vô ích. Sau cùng để kiểm chứng, thượng tế
bắt cả hai phải uống nước đắng, theo luật của sách Dân số (5, 11-31) đã truyền
khi người nào bị tố cáo về tội ngoại tình. Cả hai đều uống nước đắng nhưng
không bị tác dụng; cả làng mừng rỡ tung hô Chúa. Ông Giuse đưa Maria về nhà cho
tới ngày đi Bêlem. Còn nhiều phép lạ nữa xảy ra khi Đức Mẹ sinh con tại Bêlem
và khi Hêrôđê truy nã các anh hài.
Ảnh
hưởng của tác phẩm này trên các giáo phụ rất lớn: thánh Giuse được vẽ như một
ông lão (góa vợ), mặc dù không thể xác định tuổi tác. Ông đã nghi ngờ vợ mình
ngoại tình khi thấy bà mang bầu.
Nhiều
tác phẩm ngụy thư khác cũng lấy lại dữ liệu của Tiền Phúc âm thánh
Giacôbê: Tin mừng
mạo-Matthêu (Pseudo Mattheum, thế kỷ VII-VIII), Tin mừng thơ ấu bằng tiếng arap (hay:
Tin mừng thơ ấu tiếng syriac, thế kỷ VI-VII), Tin mừng thơ ấu tiếng armêni (khoảng năm
590).
Ngoài
những chi tiết liên quan đến thánh Giuse, thiết tưởng cũng nên ghi nhận những
ảnh hưởng khác của tác phẩm đối với phụng vụ, cụ thể là danh tính của thân sinh
đức Maria (ông Gioakim và bà Anna) và lễ đức Maria dâng mình vào đền thờ.
5/ Cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu theo
thánh Tôma
Đừng
nên lẫn lộn với “Tin mừng thánh Tôma” (một hợp tuyển các lời nói của Chúa
Giêsu, được viết vào tiền bán thế kỷ II). Sách “Cuộc đời thơ ấu” (Ta paidika tu Kyriou)
không chứa đựng đạo lý quan trọng, nhưng được viết ra do óc hiếu kỳ. Cậu bé
Giêsu, con ông Giuse, thường quấy phá các bạn bè. Được thầy giáo và hàng xóm
mách bảo, ông Giuse cũng chỉ trách lấy lệ, chứ không dám làm mạnh tay bởi vì
ông biết con mình là một nhân vật khác thường. Trên thực tế, cậu bé làm phép lạ
dễ như chơi, dù khi phụ giúp cha trong nghề thợ làm mộc, dù khi chơi giỡn với
chúng bạn.
6/ Chuyện ly trần của ông Giuse thợ mộc
Nội
dung tường thuật những giây phút cuối đời của thánh Giuse, được Chúa Giêsu kể
lại cho các môn đệ ở trên núi Cây Dầu.
Có lẽ
tác phẩm này xuất phát từ Ai cập vào khoảng thế kỷ thứ IV-V ; ngày nay chỉ còn
giữ được thủ bản bằng tiếng arap và coptô. Một ý kiến khác cho rằng tác phẩm
này ra đời sớm hơn nữa, khoảng thế kỷ II, tại Nazareth, để đọc bên mộ thánh
Giuse vào dịp giỗ ngày qua đời (ngày 26 tháng Abib theo lịch coptô, tương đương
với ngày 2 tháng 8 dương lịch). Khi các Kitô hữu gốc Do thái bị hoàng đế
Eracliô (610-614) trục xuất khỏi Nazareth, họ di cư sang Ai cập, mang theo bản
văn và dịch ra tiếng địa phương (với nhiều chi tiết được thêm thắt).
Thánh
Giuse quê tại Bêlem làm thợ mộc, nhưng cũng là người học thức. Ông lấy vợ và có
4 con trai: Giuđa, Giosep, Simon và Giacôbê, và hai con gái: Lisia và Lyđia.
Ông lấy
bà Maria, và bà đã mang thai cách lạ lùng. Một thiên sứ đã hiện ra để giải
thích cho ông. Sau khi sinh con, ông phải đưa hài nhi sang Ai-cập lánh nạn,
cùng với bà Salomê. Sau một năm ngụ cư ở đất khách, ông đưa thánh gia trở về
Nazareth. Các đứa con lớn của ông đã lập gia đình, chỉ còn đứa út (Giacôbê) ở
lại sống chung với cậu Giêsu.
Lúc ông
được 111 tuổi và dù sức khoẻ còn tốt, một thiên sứ hiện ra báo tin đã tới lúc
ly trần. Ông lên đền thờ Giêrusalem cầu nguyện, và khi trở về Nazareth thì ngã
bệnh. Ông đâm ra bàng hoàng lo sợ, nghĩ tới bao nhiêu tội lỗi đã phạm. Chúa
Giêsu đã đến bên giường trấn an. Đức Maria cũng ở bên cạnh cùng với các con cái
quây quần. Trước khi nhắm mắt, ông đã xin lỗi đức Maria bởi vì đã có lúc nghi
ngờ đức khiết tịnh của bà. Mọi người oà lên khóc. Đức Giêsu đã xin Thiên Chúa
sai thiên thần Micael và Gabriel đưa linh hồn ông về trời. Đám tang được tổ
chức long trọng ở Nazareth, do Chúa Giêsu chủ sự buổi cầu nguyện và hứa không
để thân xác ông bị tan rữa.
Ở
chương XIV, tác phẩm tóm tắt niên biểu cuộc đời của ông Giuse như sau: lúc 40
tuổi ông lập gia đình với bà Melcha (hay Escha) và sống với bà này được 49 năm,
sinh được bốn trai hai gái. Như vậy, khi vợ mất thì cụ đã được 89 tuổi rồi. Một
năm sau, cụ được lệnh phải lấy cô Maria (lúc ấy mới có 12 tuổi). Sau đó hai
năm, cô Maria có thai, và khi Chúa Giêsu ra đời thì cụ đã được 93 tuổi. Cụ qua
đời khi Chúa Giêsu lên 18 tuổi, hưởng thọ 111 tuổi. Tại sao lại già quá
vậy ” Theo cha Pierre Benoit O.P., tại vì tổ phụ Giuse trong Cựu ước qua
đời lúc 110 tuổi, nên ông Giuse trong Tân ước phải được tăng thêm một tuổi!
Sau
cùng, thiết tưởng nên ghi nhận lưu truyền về ngôi mộ của thánh Giuse: một lưu
truyền cho rằng ngôi mộ của Người ở Nazareth, một lưu truyền khác cho rằng ngôi
mộ ở Giêrusalem, bên cạnh thánh Gioakim và Anna.
Kết
luận
Đừng kể
những chi tiết được thêu dệt để thoả tính tò mò, ta thấy mối bận tâm chính của
các lưu truyền này là bênh vực đạo lý về sự trinh khiết của Đức Maria: Người
mang thai do quyền năng Thánh Thần, và suốt đời giữ mình trinh khiết. Tại sao
các sách Phúc âm lại nói đến các anh em của Chúa Giêsu? Nhằm trả lời câu hỏi
đó, các tác giả sách ngụy thư cho rằng họ là những người con mà thánh Giuse đã
có với một bà vợ trước.
Ngày
nay, khoa chú giải Kinh thánh tìm cách giải thích cách khác (anh em theo nghĩa
là anh em họ), nên không cần tới giả thuyết anh em cùng cha khác mẹ nữa. Ngoài
ra cũng nên biết là ngay từ thời Trung cổ, thánh Tôma Aquinô đã bác bỏ những
truyền kỳ đó, và quả quyết rằng thánh Giuse trinh khiết suốt đời (Summa Theologica, III,
q.28, a.3, ad 5m). Nhiều bức tranh cũng vẽ thánh Giuse cầm cây bông huệ tượng
trưng sự trinh khiết.
[1] J.M.
Canal Sanchez, San José
en los apocrifos del Nuevo Testamento, in: AA.VV., San Giuseppe nei primi quindici secoli
della Chiesa, Lib.Ed. Murialdo, Roma 1971, 123-149.
[2] Theo
sách Talmud, bà Maria có con với chàng Pandera, một tên lính Rôma. Có lẽ người
ta muốn chế nhạo, bằng cách cắt nghĩa tính từ Hy-lạp parthênos (đồng
trinh) là tên riêng của một người đàn ông: không phải là sinh bởi mẹ ?đồng
trinh” nhưng là bởi Pandera. Chưa hết, khi lớn lên, chàng Giêsu sang Ai cập để
học nghề phù thuỷ. Đó là nguồn gốc các phép lạ? sau này.
[3] Xem
ra tác giả mẫu thuẫn: bởi vì một đàng ông Giuse lấy bà Maria làm vợ (VIII,3),
cho nên chuyện có thai phải kể là thường tình ; tuy nhiên đàng khác, khi thượng
tế trao Maria cho Giuse, thì ông được dặn dò là bà Maria được giao cho ông
trông nom mà thôi (IX 3; XV,1-4).