CUỘC CANH TÂN CỦA VATICAN II –
Những nguyên tắc cơ bản
(giaolyductin.org/ 06/11/12)
Quý độc giả thân
mến,
Hòa cùng nhịp sống
của toàn Giáo hội kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II, tôi xin cống hiến với
mọi người bài viết cô đọng nhưng súc tích của nhà thần học Mỹ Avery Dulles,
S.J. Danh tiếng và thẩm quyền của ngài không ai có thể phủ nhận.
Một trong những vấn
đề quan trọng sau khi Công đồng kết thúc đó là việc giải thích Công đồng. Chúng
ta bắt gặp những lối cắt nghĩa cực hữu hay cực tả. Và cả hai đều làm sai lạc ý
muốn của Công đồng. Trước bối cảnh đó, nhân dịp Thượng Hội Đồng đặc biệt năm 1985,
kỷ niệm 20 năm ngày bế mạc Công đồng Vatican II, cha Avery Dulles cống hiến cho
chúng ta bài viết với tựa đề: Cuộc canh tân của Vatican II: những nguyên tắc cơ
bản. Với bài viết này, độc giả có thể hiểu sâu xa hơn ý muốn của các nghị phụ
Công đồng hiệp nhất với Đấng kế vị Phêrô.
Bài viết vẫn còn rất
hợp thời. Nó sẽ cho chúng ta không chỉ kiến thức thần học mà còn giúp chúng ta
kín múc được những chiều sâu thiêng liêng và tầm nhìn mục vụ rộng lớn, phù hợp
cho thời đại tân tiến hôm nay.
Xin kính chúc mọi người
những giây phút tuyệt vời trong suy tư đức tin.
Kính chúc,
LM Nguyễn Văn Am,
sdb.
CUỘC CANH TÂN CỦA
VATICAN II
Những nguyên tắc cơ
bản
Church (Summer, 1985): 3-10;
Avery Dulles, S.J.
Ngày 25 tháng Giêng, 1985 Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bất ngờ triệu tập một khóa họp ngoại thường của
Thượng Hội Đồng Giám mục từ 25 tháng Mười Một đến 8 tháng Mười Hai, 1985. Buổi
họp này, kỷ niệm 20 năm ngày bế mạc Công đồng Vatican II, mang đến cho các Giám
mục từ những Hội Đồng Giám mục khác nhau theo quốc gia và vùng một cơ hội trao
đổi và đào sâu kinh nghiệm của việc áp dụng Công đồng vào đời sống Giáo Hội
(GH). Để làm lắng dịu bất kỳ nỗi sợ hãi nào cho rằng ngài có thể làm cho mình
xa cách khỏi Vatican II, Giáo Hoàng công bố rằng Công đồng "vẫn còn là một
biến cố cơ bản trong đời sống của GH đương thời," và đối với cá nhân ngài,
Công đồng này đã "là điểm qui chiếu thường hằng của mọi hoạt động mục
vụ."
Trong hai thập niên qua
(1965-1985) Vatican II đối với nhiều người Công giáo, đã trở thành một tâm điểm
của tranh cãi. Một ít tiếng nói từ phía cực hữu và cực tả thẳng thắn chống lại
Công đồng. Những người phản đối về sự khác biệt truyền thống khiển trách Công
đồng vì đã nhượng bộ những khuynh hướng Tin Lành và Duy Tân. Ngược lại, những
người cực đoan thuộc cánh tả phàn nàn rằng đang khi Công đồng có một vài tiến
bộ, vẫn không hủy bỏ những tuyên bố có tính chuyên chế (absolutistic) của mình
và những cơ cấu giai cấp cũ kỹ. Phần đa những người Công giáo, khi diễn đạt sự
mãn nguyện với những kết quả của Công đồng, vẫn bị phân rẽ bởi vì họ giải thích
Công đồng theo những cách thức trái ngược nhau. Những người bảo thủ, nhấn mạnh
đến tính liên tục với quá khứ, dành sự nhấn mạnh hàng đầu đối với sự tái xác
quyết của Công đồng về những giáo lý Công giáo ổn định, gồm sự tối thượng và
bất khả ngộ của Giáo Hoàng. Tuy nhiên, những người cấp tiến chủ trương rằng ý
nghĩa chân thật của Công đồng tốt hơn phải được tìm nơi những sự đổi mới của
Công đồng. Đối với họ, Vatican II đoạn tuyệt dứt khoát với chủ nghĩa nệ luật,
giáo sĩ và khải thắng của những thế kỷ mới đây và đặt nền cho một Công giáo tự
do hơn và lành mạnh hơn.
Như phần lớn các Công đồng khác,
Vaican II đưa ra một số xác quyết xem ra thỏa hiệp. Công đồng cố ý nói một cách
mơ hồ về một vài điểm, để cho tương lai phải làm cho sáng tỏ hơn. Khi nhấn mạnh
những nét nan giải này, nhiều người bình luận tạo ra ấn tượng rằng Công đồng
chẳng để lại gì ngoại trừ hoài nghi và lộn xộn theo ngay sau đó. Vì vậy có thể
là lúc thừa nhận rằng đang khi để lại nhiều vấn nạn mở ngỏ, Công đồng trình bày
cái cốt lõi vững chắc (solid core) của giáo lý rõ ràng về những vấn đề có tầm
quan trọng lớn lao.
Vatican II bàn nhiều vấn đề rất
khác nhau, trải từ những vấn đề có tính chất chuyên môn cao về thần học mạc
khải đến những vấn đề rất thực tiễn về hôn nhân và đời sống gia đình. Những
tiêu điểm cốt lõi chắc chắn là sự hiểu biết của GH về chính mình, và đây là chủ
đề mà vị Giáo Hoàng đương nhiệm rõ ràng nhìn thẳng vào như nghị trình cho
Thượng Hội Đồng Giám mục 1985. Như một đóng góp vào suy tư chung vốn đi trước
Thượng Hội Đồng Giám mục, tôi sẽ tập trung vào những vấn đề thực tiễn và mục vụ
vốn có một ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống của đông đảo người Công giáo. Để
cho sáng sủa, tôi sẽ sắp xếp những nhận xét của tôi dưới đề mục của mười
nguyên lý mà tôi coi là được Công đồng xác nhận một cách không thể nghi vấn.
Tôi dám chắc rằng bất kỳ ai không chấp nhận mười nguyên lý này, không thể ngay
thẳng tuyên bố đã chấp nhận những kết quả của Vatican II.
1. Aggiornamento
(cập nhật). Hạn từ tiếng Ý này, có thể dịch sang
tiếng Anh là "cập nhật", "hợp thời", "tân thời
hóa" hay "thích ứng"; Đức Gioan XXIII làm cho nó thành đại
chúng; ngài đã làm cho khái niệm này thành nền tảng cho chương trình của mình
đối với Công đồng sắp tới. Khi chấp nhận chương trình này, các nghị phụ tại
Vatican II tuyên bố bỏ đi sự thù ghét và nghi ngờ đối với thế giới tân thời;
chính điều ấy đã đặc trưng hóa Công giáo của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Cách
riêng trong Hiến chế mục vụ về GH trong thế giới tân tiến (Gaudium et Spes),
Công đồng tuyên bố GH rất kính trọng chân lý và sự tốt lành mà sự tân tiến đã
mang vào trong thế giới (GS 42). Công đồng nói rằng chúng ta là những chứng
nhân cho sự khai sinh của một chủ thuyết nhân bản mới trong đó dân chúng ý thức
về trách nhiệm của họ đối với nhau vì tương lai của thế giới (GS 55). Công đồng
nói, các tín hữu phải "sống hiệp nhất mật thiết với con người của thời đại
mình" (GS 62). Tuy nhiên, những người Công giáo phải "hòa nhập khoa
học tân tiến và những lý thuyết của nó vào việc hiểu biết những khám phá mới
đây nhất với luân lý và giáo lý Kitô giáo" (GS 62), hầu GH có thể theo kịp
với thời đại và hoàn toàn đi vào kỷ nguyên mới nay đang nảy sinh. Bằng cách đó,
GH có thể làm giầu chính mình và hiểu biết tốt đẹp hơn những kho tàng GH nhận
được từ Đức Kitô. Chẳng những không bám vào những hình thức cổ xưa, GH như
người lữ khách phải vội vã tiến lên tới sự hoàn tất của lịch sử, khi Vương quốc
TC sẽ được mạc khải trong tất cả sự tròn đầy của nó. Dĩ nhiên, Đức Gioan XXIII
cũng như Công đồng không chủ trương tín điều phi lý rằng cái mới thì luôn tốt
hơn cái cũ. Thực vậy, họ thường chỉ ra rằng những kỹ thuật tân tiến có thể dễ
dàng bị lạm dụng để làm dân chúng lãng trí khỏi những của cải tinh thần hằng
tồn tại. Nhưng đó không phải là lời bào chữa cho việc vùi mình vào trong quá
khứ.
Giống như tất cả những nguyên lý
khác mà chúng ta sẽ xem xét, nguyên lý aggiornamento, chỉ là một nguyên
lý. Áp dụng nó đòi phải thận trọng và suy xét kỹ càng trừ phi Tin Mừng mất đi
sức mạnh thách đố của mình khi bị điều chỉnh cho hợp với tinh thần của thời
đại. Nguyên lý ấy tự nó vẫn lành mạnh và quan trọng. Đang khi vinh vang vào gia
tài cao quí của mình, GH không được cho phép mình trở thành một món hàng trong
bảo tàng viện. GH không được trở thành một di vật của Trung Cổ hay bất kỳ thời
kỳ quá khứ nào, nhưng đúng hơn là một phần sống động của thế giới tân tiến khi
vội vã tiến lên tới tương lai của TC. Tin tưởng rằng chính Chúa vẫn ở lại với
dân ngài qua các thế kỷ, những Kitô hữu có thể can đảm sống và làm chứng Tin
Mừng dưới những điều kiện của thế giới ngày nay.
2. Giáo Hội có thể
đổi mới. Trong những thế kỷ mới đây chung chung
đều đã nhìn GH như một tổ chức thần linh không vết nhơ hay nhăn nheo. Đang khi
nhìn nhận cá nhân tín hữu có nhiều lầm lỗi, những người Công giáo đã nhấn mạnh
rằng chính GH là tinh tuyền và thánh thiện. Tuy nhiên, Vatican II miêu tả GH là
Dân TC dưới diện hình ảnh Kinh Thánh. Như chúng ta học từ Kinh Thánh, dân tộc
này đôi khi bất trung, dù luôn được đóng ấn do mối liên hệ giao ước với TC. Vì
vậy, hiến chế về GH (Lumen Gentium) có thể chấp nhận: "GH, khi ôm
ấp các tội nhân trong lòng, thì đồng thời và luôn luôn cần được thanh tẩy và
không ngừng theo đuổi lối đường sám hối và canh tân." (LG 8). Hơn nữa,
trong sắc lệnh về Đại kết (Unitatis Redintegratio), Công đồng tuyên bố:
"Đức Kitô mời gọi GH phải đổi mới liên lỷ, đang khi lữ hành; sự đổi mới
ấy, GH luôn thiếu sót, theo mức độ GH là một tổ chức của con người trên
trần" (
Ý tưởng rằng GH có thể đổi mới
khiến mọi người ngạc nhiên. Vào muộn thời Trung Cổ, đã có một vài Công đồng lấy
việc cải cách của toàn GH "nơi thủ lãnh và nơi các phần tử," như mục
đích rõ ràng của mình. Nhưng sau cuộc Cải Cách Tin Lành, ý tưởng đổi mới bị
nghi ngờ trong phạm vi Công giáo. Tuy nhiên, nhờ Vatican II chúng ta được vơi
nhẹ gánh nặng phải bảo vệ toàn hồ sơ lý lịch của quá khứ. Chúng ta có thể tự do
chấp nhận rằng không chỉ cá nhân những người Công giáo nhưng cả chính GH trong
những hành vi chính thức của mình, đã phạm sai lầm và tội lỗi, như việc đốt
thiêu người lạc giáo, bách hại người Do thái và những quá độ của những cuộc
thánh chiến. Chúng ta có thể chấp nhận rằng những người Công giáo đã thông chia
phần lớn trách nhiệm trong việc mang đến những chia rẽ giữa những Kitô hữu và
như thế đã làm suy yếu chứng tá Kitô hữu trong thời đại chúng ta.
Như nguyên lý hợp thời, ta phải
thận trọng và khôn ngoan áp dụng nguyên lý thứ hai này. Không phải mọi sự trong
GH là nghi ngờ và khả ngộ. Những cấu trúc bí tích cơ bản, các sách thánh, và
những tín điều của GH có giá trị vĩnh cửu. Ân sủng của Đức Kitô, vốn đến qua
những kênh rạch này thì mạnh mẽ hơn sự bất trung và tội lỗi của con người. Vì
vậy, GH không có một sự quan hệ bình đẳng đối với sự thánh thiện và sự xấu. Sự
xấu là nghịch với bản tính chân thật của GH. Vì lẽ này, đang khi nói về GH của
những tội nhân, Vatican II né tránh diễn ngữ "GH tội lỗi". Sự khác
nhau (giữa hai diễn ngữ đó) quả thật tinh tế, nhưng có một tầm quan trọng nào
đó.
Về những biến cố lịch sử quá
khứ, chúng ta phải canh chừng chống lại một thứ khổ dâm thiêng liêng (spiritual
masochism) vốn thường chuyển tất cả lời khiển trách của phần tử khác tới chúng
ta. Thông thường tốt nhất là theo nguyên tắc của Đức Gioan XXIII: "Chúng
tôi không muốn làm ra một phiên tòa về quá khứ. Chúng ta sẽ không tìm cách
thiết lập xem ai đúng ai sai. Trách nhiệm là bị chia tách." Dù vậy, để sắp
xếp hồ sơ cho ngăn nắp, từ bỏ một vài sai lầm thật là tốt đẹp. Chẳng hạn, sự
nghiên cứu (điều tra) hiện tại để quyết định xem ủy ban Giáo Hoàng có sai lầm
do kết án những lý thuyết của Galileo vào thế kỷ 17 hay không.
3. Canh tân sự chú
tâm đối với Lời Chúa. Trong thời Trung Cổ và thậm chí hơn nữa
từ thời Cải Cách, Công giáo có khuynh hướng trở thành một GH của luật lệ và các
bí tích hơn là GH của Tin Mừng và Lời Chúa. Những người Công giáo cũng thường
lãng quên sự phong phú thiêng liêng được chứa đựng trong Kinh Thánh. Khi nhấn
mạnh những giới luật của GH, họ cho phép hoãn lại việc công bố Tin Mừng. Họ cử
hành Thánh Lễ bằng tiếng Latinh - một ngôn ngữ mà đa số dân chúng không hiểu -
và thường không có bài giảng. Trong thần học Công giáo, Kinh Thánh được coi là
một nguồn mạch giáo lý xa xôi, hiếm khi được dùng trừ phi để tìm các bản văn
chứng cớ cho những giáo lý sau này của GH.
Vatican II, cách riêng trong
Hiến Chế về Mạc khải (Dei Verbum), khôi phục lại tính tối thượng của
Kinh Thánh như Lời Chúa được ký thác cho việc viết dưới sự linh hứng của Thánh
Thần (DV 9). Theo Hiến chế này, chức vụ dạy dỗ của GH "không ở trên lời
Chúa, nhưng phục vụ Lời, khi sốt sằng lắng nghe Lời, cẩn thận gìn giữ Lời, và
trung thành giải thích Lời" (DV 10). “Theo cùng Hiến chế đó, việc học hỏi
Thánh kinh, có thể nói, là linh hồn của thần học thánh" (DV 24).
Cùng Hiến chế đó mạnh mẽ khuyên
tất cả những người Công giáo sử dụng Kinh Thánh. Hiến chế nói: "Phải làm
cho tất cả các tín hữu Chúa Kitô dễ dàng đến gần Kinh Thánh" (DV
22). Ở đây Kinh Thánh được so sánh với Thánh Thể, vì mỗi thực tại, theo cách
riêng, ban cho các tín hữu bánh sự sống (DV 21). Trong cùng đoạn đó, chúng ta
thấy câu hùng biện sau đây: "Bởi vì trong sách thánh, Chúa Cha trên trời
gặp gỡ con cái mình và với họ bằng một tình yêu lớn lao; sức mạnh cùng quyền
lực của Lời Chúa thật lớn lao đến nỗi Lời Chúa vẫn còn là sự nâng đỡ và năng
lực của GH, sức mạnh của đức tin cho con cái GH, lương thực của linh hồn, nguồn
mạch tinh tuyền và vĩnh cửu của đời sống thiêng liêng."
Ngoài việc phục hồi Kinh Thánh,
Công đồng tìm cách canh tân tác vụ rao giảng. Công đồng mời gọi các vị giảng
thuyết Công giáo cung cấp lương thực Kinh Thánh cho Dân Chúa (DV 23) và khuyến
cáo rằng, như thánh Augustinô đã nói, "những ai không lắng nghe Lời Chúa
bên trong sẽ là những người giảng thuyết rỗng tuếch của Lời Chúa bên
ngoài" (DV 25). Vậy, linh mục cũng như giáo dân được khích lệ để đọc Kinh
Thánh với tinh thần cầu nguyện.
Từ Công đồng, những chỉ dẫn như
tôi vừa trích dẫn đã sinh nhiều hoa quả tuyệt vời. Những người Công giáo học
hỏi Kinh Thánh nhiều hơn; nhiều người tham dự những nhóm học hỏi và cầu nguyện
vốn tập trung vào Kinh Thánh. Nhưng về điều này, cũng như trong những điều
khác, cần tiến hơn nữa. Cho đến giờ vẫn không có nguy hiểm rằng những người
Công giáo, khi nhiệt tâm đối với Lời, sẽ quay khỏi nghi thức và bí tích hay khi
họ sùng mộ Tin Mừng, họ sẽ xao nhãng luật Đức Kitô và GH. Thái độ thoải mái hơn
đối với luật GH hiện nay, đang khi đáng tiếc ở một vài khía cạnh, có thể được
nhìn như một mối lợi tới mức nó giúp vượt thắng một sự bối rối hầu như mang
tính hình thức (đạo đức giả, pharisaical) mà những người cộng giáo lụy phục
nhiều năm trước Vatican II. Dĩ nhiên, một cách lý tưởng, những yếu tố đối kháng
như lề luật và Tin Mừng, Lời và Bí tích không được đối nghịch với nhau một mất
một còn, nhưng đúng hơn phải kiện cường lẫn nhau. Nỗ lực để đạt được sự cân
bằng đúng đắn phải là điều quan trọng nhất cho người Công giáo hôm nay.
4. Tập đoàn tính. Nói rằng GH Công giáo từ Trung cổ mãi là một cơ cấu kim tự tháp
hầu như là một lời vô vị. Ta quan niệm chân lý và sự thánh thiện xuất phát từ
Giáo Hoàng như vị Tổng Tư lệnh ở trên cùng, và các Giám mục được miêu tả như
các sĩ quan thuộc cấp thực thi những mệnh lệnh của Giáo Hoàng. Vào thời đại
chúng ta nhiều người Công giáo bảo thủ thiên về thứ loại suy quân sự này về GH.
Vatican II không chối bỏ tính
tối thượng của Giáo Hoàng như đã được
Nguyên lý tập đoàn tính xuyên
suốt những văn kiện của Vatican II như một sợi chỉ vàng. Giống như Giáo Hoàng
được vây quanh bởi một đoàn Giám mục, thì mỗi Giám mục phục vụ như thủ lãnh của
một đoàn linh mục, được gọi là linh mục đoàn (presbytery), và cai quản địa phận
trong sự tham khảo với các linh mục, tu sĩ và giáo dân. Do vậy, nguyên lý tập
đoàn tính, được hiểu theo một nghĩa rộng, có thể được coi là tháp nhập tất cả
mọi cấp của GH. Theo Hiến chế về GH, những vị mục tử "biết rằng chính Đức
Kitô không muốn họ một mình gánh trên vai toàn thể sứ mệnh cứu độ của GH đối
với thế giới. Trái lại, họ hiểu rằng bổn phận cao quí của mình là chăn dắt các
tín hữu và nhận biết những sự phục vụ và những tặng phẩm đặc sủng của họ hầu
tất cả theo những vai trò riêng của mình có thể một lòng một trí cộng tác vào
công việc chung." (LG 30).
Từ Công đồng, nhiều thể chế mới
đã được dựng lên để thực hiện tính tập đoàn trên những bình diện khác nhau;
chẳng hạn, Thượng Hội Đồng Giám mục có tầm vóc thế giới, những hội đồng Giám
mục quốc gia và vùng, những hội đồng mục vụ quốc gia và địa phận, hội đồng giáo
xứ, hội đồng linh mục, v.v. Nếu trong một vài trường hợp quá nhiều câu hỏi đã
phải chịu thảo luận và tranh cãi lâu dài, điều ấy đã nhất thiết phải đi qua
giai đoạn này để tới phương kế đúng. Chủ nghĩa đại nghị (parliamentarism)
hay dân chủ, nếu được mang đi quá xa, thì có thể khích động một phản ứng theo
phía đối nghịch tới sự phục hưng của một hình thức tiền Công đồng của chủ nghĩa
chuyên chế (authoritarianism), mà dường như tương đối hiệu quả và nhanh
chóng. Ở đây Công đồng vẫn mời gọi chúng ta nghĩ ra cơ chế làm những quyết
định; cơ chế đó phải kính trọng cả nguyên lý truyền thống là thẩm quyền mục vụ
cá nhân lẫn bản chất của GH như một cộng đoàn đầy Thần khí. Quân đội hay một
hội họp theo thành phố Tân Anh Quốc đều không phải là một khung não trạng
(paradigm) thích hợp.
5. Tự do tôn giáo. Cho tới chính lúc này khi Công đồng khai mạc, không hề chắc chắn
GH Công giáo có thể tán thành nguyên lý tự do tôn giáo mà lúc đó đã ưu thắng
trong phần đa nhóm Tin Lành và được phê chuẩn trong Hội Nghị của Công Hội Thế
Giới của các Giáo Hội (WCC) tại New Delhi vào năm 1961 hay không. Một cách biệt
loại hơn, người ta hỏi xem GH có thể hoàn toàn kính trọng quyền lợi và bổn phận
của từng người hay không để tuân theo lương tâm của họ về việc chấp nhận hay
không chấp nhận niềm tin tôn giáo. Hằng bao thế kỷ, các GH, Tin Lành cũng như
Công giáo, cố gắng để được kiểm soát bộ máy của quyền lực dân sự hầu thủ đắc
được một địa vị ưu tiên. Vào thập niên 1950, khi John Courtney Murray bắt đầu
bảo vệ ý tưởng về một nhà nước trung lập về tôn giáo, những thần học gia Hoa Kỳ
khác và ngay cả một vài vị thẩm quyền của Roma tra hỏi xem ông còn chính thống
hay không. Tuy nhiên, vượt qua những phản đối của các đối thủ, ông được mời tới
Vatican II (thật sự không phải khóa họp đầu tiên, nhưng từ khóa họp thứ hai trở
đi) và ông, có lẽ hơn bất kỳ cá nhân nào khác, chịu trách nhiệm Tuyên Ngôn
về tự do tôn giáo. Tuyên ngôn này rõ ràng dạy rằng đối với nhà nước, không
cần phải tuyên xưng tôn giáo chân thật hay cho tôn giáo một địa vị ưu tiên theo
luật pháp. Tuyên ngôn ấy phê chuẩn sự khoan thứ dân sự đối với tất cả niềm tin
và trên những nền tảng thần học, chống đối bất kỳ sự cưỡng bách nào trên bình
diện niềm tin.
Đối với phần đa người Mỹ nguyên
lý tự do tôn giáo không mang đến khó khăn nào. Chúng ta hầu như chấp nhận nó đã
rồi. Đúng hơn, mối nguy của chúng ta là rơi vào một cực đoan đối nghịch: chủ
nghĩa dửng dưng tôn giáo. Chúng ta phải nhắc nhớ mình rằng chính Tuyên ngôn đó
xác định địa vị độc đáo của đức tin Công giáo và các tín hữu bổn phận phải
tuyên xưng và bảo vệ đức tin đó. Như Đức Kitô và các tông đồ, những người chân
thành tin và yêu mến chân lý nhận được từ Đức Kitô sẽ cố gắng làm chứng cho
chân lý đó bằng lời nói và việc làm của họ, và chia sẻ đức tin của họ với người
khác.
6. Vai trò tích cực
của Giáo dân. Trong GH Công giáo, ít nhất trong thời
đại tân tiến, linh mục và tu sĩ gánh hầu hết toàn bộ trách nhiệm đối với sứ
mệnh của GH. Tinh thần tông đồ của giáo sĩ và các dòng tu thật đáng khen, nhưng
nói chung, giáo dân khá thụ động. Đang khi tìm phương dược chữa trị tình trạng
này, phong trào được ta biết đến như Công giáo Tiến Hành, trong thời kỳ giữa
hai cuộc thế chiến, tìm cách để làm cho những phần tử giáo dân ưu tú can dự vào
việc tông đồ của hàng giáo phẩm. Không thỏa mãn với điều này, một số thần học
gia cấp tiến suốt thập niên trước Vatican II chủ trương rằng ngoài việc hợp sức
với việc tông đồ của hàng giáo phẩm, giáo dân phải tích cực thực thi một việc
tông đồ trong chính quyền lợi của mình như những tín hữu được thánh tẩy. Đang
khi xác nhận sự phát triển này, Công đồng khích lệ giáo dân làm cho Vương quốc
TC tiến tới bằng cách dấn mình vào những công cuộc trần thế và bằng việc phục
hồi những bổn phận gia đình và ơn gọi một cách trung thành với Đức Kitô.
Từ Công đồng, một vài người chủ
trương rằng giáo sĩ có những công việc bên trong GH như lãnh vực hoạt động
riêng của họ, đang khi giáo dân phải coi các chuyện trần thế như lãnh vực có uy
tín của mình. Tuy nhiên, Công đồng không coi một sự phân chia công việc cách
sắc bén như thế là đúng. Công đồng cung cấp một sự tham gia tích cực của giáo
dân trong thờ phượng, trong các hội đồng mục vụ, và thậm chí trong lãnh vực
thần học. Trong lãnh vực cuối cùng Vatican II mời gọi giáo dân nói tự do và
công khai: Hiến chế Vui mừng và Hy vọng nói: "Để những người như thế
có thể chu toàn chức năng riêng của mình, ta hãy nhận biết rằng tất cả các tín
hữu, giáo sĩ và giáo dân, đều được tự do hợp pháp để tìm tòi và suy tư, và tự
do diễn đạt tâm trí của mình cách chân thành và can đảm về những vấn đề mà họ
uy tín." (GS 62).
Trong hai thập niên từ sau Công
đồng, chúng ta nhìn thấy trong GH gia tăng rất nhiều những tác vụ giáo dân -
không chỉ thiết lập theo giáo luật các tác vụ đọc sách và giúp lễ, nhưng cả
những tác vụ giảng dạy, âm nhạc, hoạt động xã hội, tư vấn, và ngay cả ban phát
Thánh Thể. Cũng vậy có cả một dòng chảy lớn và tự do của giáo dân nam nữ vào
thần học. Một cách có thể tiên đoán được những phát triển mới này đòi hỏi những
điều chỉnh mà trong một số trường hợp thật khó khăn. Trách vụ của Giáo Hoàng và
các Giám mục là phải bảo đảm rằng những phát triển mới này không phá vỡ cộng
đoàn. Trong một vài trường hợp, điều này muốn một bước tiến chậm chạp, nhưng
xét toàn bộ chúng ta tạ ơn Chúa vì quá nhiều điều được hoàn thành trong một
thời gian quá ngắn như thế. Trong một thời kỳ suy giảm những ơn gọi vào đời
sống giáo sĩ và tu sĩ, giáo dân đảm nhận trách nhiệm lớn lao hơn bao giờ đối
với đức tin và đời sống của GH quả là khẩn cấp.
7. Tính đa biệt
trong Vùng và Địa phương. Từ cuối thời Trung cổ cho đến
Vatican II những nhấn mạnh đặc trưng của Công giáo là trên GH phổ quát, thông
thường được miêu tả như một xã hội nguyên khối. Trái lại, Vatican II nhấn mạnh
đến GH địa phương. Như đã nói, mỗi GH ấy dưới sự hướng dẫn của Giám mục vốn
được gọi là "đại diện Đức Kitô." Nhiều bản văn Công đồng trình bày GH
phổ quát như sự hiệp thông, hay là một kết hợp tập đoàn, của các GH địa phương.
Hiến chế tí lý về Giáo Hội nói: "Trong và từ từng các GH như thế hiện hữu
chỉ một GH Công giáo" (LG 23). Trên nền tảng của sự thụ phong và chỉ định
của mình, Giám mục địa phương được ban thẩm quyền là một mục tử chân thật của
cộng đoàn, đang khi làm những quyết định có trách nhiệm hơn là chỉ thực thi
những chỉ dẫn của Roma (LG 27).
Vatican II cũng dự liệu cho
những việc tạo thành nhóm trong vùng. Nói về những khác biệt giữa Kitô giáo
Đông và Tây, Công đồng tuyên bố: "Không hề là một cản trở cho sự hiệp nhất
của GH, sự đa biệt như thế của các phong tục và những tuân thủ như thế chỉ thêm
vào cho vẻ đẹp của GH và đóng góp nhiều vào việc thực thi sứ mệnh của GH"
(UR 16). Như vậy Vatican II nhìn nhận một sự đa dạng hợp pháp giữa các GH vùng,
ngay cả trong phát biểu của tín lý. Nơi khác, Công đồng nói: "Sự đa dạng
của các GH địa phương với một khao khát chung là bằng chứng huy hoàng đặc biệt
về tính Công giáo của GH không bị phân chia" (LG 23). Hiến chế Vui mừng và
hy vọng nói: "Điều chỉnh việc rao giảng Tin Mừng phải là luật của mọi việc
loan báo Tin Mừng." (GS 44). Ta nói được rằng, mỗi quốc gia phải phát
triển khả năng diễn đạt sứ điệp của Đức Kitô theo cách riêng mình, và phải cố
xúy một sự trao đổi sống động giữa GH và văn hóa đặc thù (GS 44).
Sự khác biệt giữa Công giáo của
các vùng khác nhau ngày nay thì hiển nhiên hơn 20 năm về trước [1965], khi những
tập tục và phụng vụ của GH Roma, với ngôn ngữ Latinh của nó, bị thúc ép một
cách phổ quát. Sự khác biệt hóa này chưa kết thúc. Đức Gioan Phaolô II, trong
chuyến viếng thăm
Châu Mỹ hóa [“Á châu hóa”] đã và
đang xẩy ra trong chính đạo Công giáo chúng ta. Bởi vì truyền thống văn hóa
chính trị đặc biệt của chúng ta, chúng ta có những nhãn quan khác nhau từ nhiều
quốc gia khác về cách thức Giáo hội phải liên hệ với chính trị và kinh tế.
Chúng ta có những quan niệm khác nhau về nhân quyền, đang khi lớn lên từ truyền
thống được công nhận. Có lẽ chúng ta cũng được chuẩn bị hơn nhiều quốc gia khác
để nhìn thấy phụ nữ nổi lên tới những địa vị lãnh đạo trong Giáo hội, như họ có
trong đời sống chính trị và kinh tế.
Đang khi tìm một sự hội nhập văn
hóa lành mạnh, chúng ta phải tránh nghĩ rằng những truyền thống quốc gia chúng
ta thì nằm ngoài phê bình, hay người Mỹ là dân tộc cao hơn và không có gì phải
học từ những quốc gia khác. Ngay cả ở đâu những khác biệt hợp pháp hiện hữu, chúng
ta phải chăm lo chúng không phá vỡ sự hiệp thông của chúng ta với toàn GH Công
giáo còn lại. Về điều này chúng ta phải kính trọng quyền bính của Tòa Thánh, mà
có trách nhiệm trước mặt Chúa để "bảo vệ những khác biệt hợp pháp"
cũng như đảm bảo rằng "những khác biệt như thế không cản trở hiệp nhất
song trái lại đóng góp vào điều ấy." (LG 13)
8. Đại kết. Từ thời Cải Cách, những người Công giáo thông thường thừa nhận
những thái độ thù hằn và tự vệ đối với những Giáo hội Kitô hữu khác, và cách
riêng hướng đến Tin Lành. Sự thù hằn như thế thậm chí có thể tìm thấy trong
những văn kiện chính thức của Tòa Thánh, đặc biệt giữa Đức Pio IX và Pio XI. Về
điều này Đức Gioan XXIII và Vatican II đã thực hiện một cuộc cách mạng im lặng.
Công đồng trong sắc lệnh về Đại kết diễn đạt sự kính trọng đối với gia sản của
những Giáo hội Kitô hữu khác, kêu gọi chú ý tới tầm quan trọng mang tính chất
cứu độ trong những giáo hội đó đối với các thành viên của mình, và thừa nhận
rằng những giáo hội đó có những yếu tố chân thật của Giáo Hội Chúa Kitô. Như
vậy, vạ tuyệt thông đã nhường cho đối thoại. Trong những cuộc đối thoại đại kết
từ Công đồng, đã đạt được tiến bộ lớn lao trong việc vượt thắng những khác biệt
lớn lao vốn đã chia rẽ các giáo hội hằng bao thế kỷ. Đang khi sự hiệp nhất
chính thức giữa GH Công giáo và những cộng đoàn khác vẫn còn là một viễn tượng
xa xôi, thì các Kitô hữu của những nhóm niềm tin khác nhau đã đạt được một mức
độ thông cảm lẫn nhau, kính trọng và liên đới rất lớn lao.
Việc thi hành Đại kết cách thích
đáng, như việc thi hành các nguyên lý khác mà chúng ta đang xét ở đây, đòi hỏi
một óc thực tiễn và phán đoán tốt đẹp. Một đàng, chúng ta phải vượt thắng những
thái độ hận thù và nghi ngờ quen thuộc của chúng ta và rộng mở để trân trọng
tất cả những giá trị lành mạnh nơi những hình thức khác của Kitô giáo, cả Đông
lẫn Tây. Đàng khác, chúng ta không thể nhượng bộ điều gì là chân thật và có giá
trị trong truyền thống Công giáo chúng ta và hành động như thể tất cả những vấn
đề đại kết đã được giải quyết rồi. Thay vì muốn rũ bỏ suông những bất đồng vẫn
còn đó, (mong chúng không tồn tại), chúng ta phải kiên nhẫn làm việc suốt một
thời gian dài để đạt được một sự đồng thuận dựa trên chân lý, qua cầu nguyện và
đối thoại.
9. Đối thoại với các
Tôn giáo khác. Công đồng Vatican II không chậm chạp
trong việc tri nhận rằng thái độ thay đổi của những người Công giáo đối với các
Giáo hội Kitô hữu khác đòi phải chuyển đổi tương xứng trong thái độ của họ đối
với những tôn giáo khác và những tín đồ của các tôn giáo đó. Vì vậy Công đồng
soạn thảo một Tuyên Ngôn về Những Tôn Giáo không phải Kitô giáo (Nostra
Aetate); Tuyên ngôn ấy chứa đựng một phần lớn về những mối liên hệ giữa
Kitô hữu-Do thái. Từ Công đồng đã có những đối thoại quan trọng giữa những
người Công giáo và Do thái, cả trong quốc gia này lẫn ở ngoại quốc. Các Kitô
hữu thấy rằng những sự giầu có của các truyền thống tôn giáo khác, như Ấn độ
Giáo, Phật Giáo và Hồi Giáo, có thể giúp sinh động lại đức tin và sự thờ phượng
của chính họ. Các vị truyền giáo đang tìm những cách thức mới để giúp những
người ngoài Kitô giáo liên hệ tốt đẹp hơn với Thiên Chúa trong những niềm tin
của cha ông họ.
Nguyên lý của đối thoại liên
tôn, như những nguyên lý mà tôi đề xướng, thách đố chúng ta tới một phản ứng
trưởng thành và có trách nhiệm. Một số bình luận gia đã giới thiệu một phản đề
giữa sứ mệnh và đối thoại, như thể tầm quan trọng của cái này phải xén bớt sự
cần thiết của cái kia. Tuy nhiên, Công đồng giữ sứ mệnh và đối thoại ở thế cân
bằng. Đang khi nhận biết những yếu tố của chân lý và sự tốt lành trong tất cả
những tôn giáo lớn, và như vậy phát sinh niềm ao ước đối thoại trong kính
trọng, Công đồng nhấn mạnh đến sự độc nhất do Chúa ban cho Giáo hội của Đức
Kitô và như vậy nhấn mạnh đến “sự cần thiết tuyệt đối” của hoạt động truyền
giáo hầu Đức Kitô có thể được nhận biết giữa tất cả các dân tộc là Đức Chúa và
là Đấng Cứu Độ phổ quát.
Đối với đa số Kitô hữu sự áp
dụng hiển nhiên nhất của tuyên ngôn về các tôn giáo không phải Kitô giáo có
liên quan với Do thái giáo; vẫn có một thái độ thù hằn tiềm tàng giữa nhiều
người Công giáo, được đâm rễ sâu trong những yếu tố chủng tộc và văn hóa. Chúng
ta cần nỗ lực đặc biệt để vượt trên những thái độ tiêu cực này vốn hoàn toàn
trái nghịch với điều răn yêu thương của Tin Mừng. Như tôi nhắc đến ở trên, Giáo
hội một cách tập thể phải sám hối nhiều về những quan hệ với dân Do thái. Chúng
ta đừng thêm vào những tội ác này.
10. Sứ mệnh có tính
xã hội của Giáo hội. Từ thời Cải Cách, GH Công giáo đã có
khuynh hướng nhìn sứ mệnh của mình như một sứ mệnh chỉ mang tính chất tôn giáo
mà thôi, nhằm chuẩn bị các cá nhân qua đức tin, sự thờ phượng, và thái độ chính
đáng để đạt đến sự sống đời đời. Dần dần, với những thông điệp xã hội của các
Giáo Hoàng như Lêô XIII và Pio XI, GH bắt đầu đảm nhận trách nhiệm dạy dỗ các nguyên
lý của một trật tự xã hội công bằng, nhưng trật tự này được nhìn dưới diện hợp
với luật tự nhiên hơn là như một sự thực thi Tin Mừng.
Với Đức Gioan XXIII và Vatican
II, sự nhấn mạnh đã thay đổi. Hoạt động tông đồ về hòa bình và sự công bằng xã
hội xảy ra được coi là một đòi hỏi của sứ mệnh Giáo hội là tiếp tục công trình
của Đức Kitô, Đấng đã động lòng xót thương những người nghèo khổ và bị đàn áp.
Thái độ thay đổi này được diễn đạt hùng hồn trong “sứ điệp gởi Nhân Loại” của
Vatican II, phát hành 9 ngày sau khi khai mạc Công đồng năm 1962. Sứ điệp ấy
được soạn thảo tỉ mỉ đầy đủ hơn trong Hiến chế mục vụ về GH trong thế giới
tân tiến (Gaudium et Spes), sứ điệp mô tả GH như được phú ban “một
chức năng, một ánh sáng, và một năng lực mà có thể phục vụ để cấu trúc và củng
cố nhân loại.” (GS 42). Từ Công đồng chiều hướng này đã đạt được sức đẩy. Nó
được phản ánh trong thông điệp của Đức Phaolô VI về sự Phát triển của các
Dân Tộc (1967) và còn rõ ràng hơn nữa trong tài liệu của Thượng Hội Đồng
Giám mục về Sự Công Bằng trong Thế Giới (1971), nó miêu tả cuộc đấu
tranh cho công bằng và sự biến đổi xã hội như những chiều kích cấu thành của
việc loan báo Tin Mừng. Đang khi tìm thực thi mệnh lệnh của Công đồng là phân
định những dấu chỉ thời đại trong ánh sáng Tin Mừng (GS 4), những Giáo Hoàng và
hội đồng Giám mục đã cống hiến ngày một hơn những chỉ dẫn cụ thể liên quan đến
những vấn đề của chính sách công cộng. Chủ đề về tình liên đới đặc biệt của GH
với người nghèo đã được đề cập tại Vatican II, (GS 1), nảy sinh ở Mỹ Latinh tới
ý tưởng về một “sự chọn lựa ưu ái” dành cho người nghèo.
Nguyên lý thứ mười này không dễ
dàng thực thi hơn chín nguyên lý kia. Thật là vô trách nhiệm đối với Giáo hội
để tránh né tất cả mọi bình luận về những khía cạnh luân lý và tôn giáo của những
vấn đề chính sách công cộng, vì, một cách hợp pháp, thế giới tìm kiếm lời
khuyên nơi những vị lãnh đạo tôn giáo trong việc định hình lại xã hội, theo
điều mà Giám mục James Malone đã gọi “một hệ thống giá trị được TC ban tặng”.
Đàng khác, những thẩm quyền Giáo Hội phải kính trọng sự tự do cá nhân và nhóm
trong GH để đạt tới những quyết định chu đáo (conscientious) về những chính
sách mà những người Công giáo cam kết và tri thức có thể bất đồng. Những cuộc
tranh luận náo loạn về những lá thư mục vụ tập thể của các Giám mục Hoa kỳ về
hòa bình và kinh tế minh chứng rằng, đang khi tiến bộ chân thật được thực hiện,
thì lối tiếp cận đúng đối với những vấn đề xã hội-chính trị chỉ được tìm thấy
dần dần qua một tiến trình tiếp cận thực nghiệm.
Mười nguyên lý này không nhằm
tát cạn những thành tựu của Vatican II, ngay cả trong lãnh vực giáo hội học.
Nhưng theo ý tôi, chúng chắc chắn cho thấy rằng Công đồng, bất chấp tất cả
những ngập ngừng và thỏa hiệp, cống hiến những chỉ dẫn rõ ràng về nhiều vấn đề
cốt yếu. Thượng Hội Đồng Giám mục ngoại thường năm 1985, đang khi tưởng niệm 20
năm ngày bế mạc Công đồng, có thể tái xác quyết và minh tỏ một vài điểm giáo lý
cơ bản, rõ ràng này. Bằng cách đó nó có thể giúp những người Công giáo trên
khắp thế giới bàn đến những vấn đề của những thập niên sắp tới với sự tin tưởng
và nhất trí lớn lao hơn.