Đức Tin Trong Thần
Học
Phan Tấn Thành - (daminhvn.net)
I. Kinh thánh.
A. Cựu ước. 1/ Từ ngữ. 2/ Ý
niệm.
B. Tân ước. 1/ Tin mừng nhất
lãm. 2/ Thánh Gioan. 3/ Thánh Phaolô
II. Lịch sử Giáo hội
A. Thời các giáo phụ. B. Thời
Trung cổ. C. Cuộc Cải cách Tin lành. D. Thời Cận đại
III. Đức tin trong các chuyên ngành thần học
A. Thần học cơ bản. Các tiền
đề dẫn đến đức tin.
B. Thần học tín lý. 1/ Tin
như hành động. 2/ Tin như tập quán: nhân đức tin. 3/ Tin xét về chủ thể và đối
thể. 4/ Tín điều và gia sản đức tin.
C. Thần học luân lý. 1/ Tin
và cứu độ. 2/ Tin linh hoạt. 3/ Tin và tuyên xưng. 4/ Những tội trái nghịch đức
tin.
D. Thần học tâm linh. 1/ Sống
đức tin. 2/ Trưởng thành đức tin.
Chữ viết tắt. GLCG: Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo
--------
“Đức tin trong thần học” có thể được hiểu
theo nhiều nghĩa. Thần học vốn được quan niệm như là “sự suy tư về đức tin” (cogitatio
fidei). Đức tin theo sát tiến trình làm việc của thần học (auditus
fidei, intellectus fidei, praxis fidei). Điều này hàm ngụ rằng đức tin là
linh hồn của thần học: nếu không có đức tin thì thần học mất ý nghĩa. Mặt khác,
nếu đối tượng nghiên cứu của thần học là các chân lý đức tin thì đức tin bao
trùm hết mọi lãnh vực của thần học. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi
dưới một góc cạnh khác: thần học nói gì về đức tin? Đức tin đã đặt ra những
vấn đề gì cho thần học? Đây là đối tượng khảo sát của bài này. Đức tin được
thần học nghiên cứu trong nhiều lãnh vực chuyên ngành, và mỗi ngành thường chỉ
quan tâm đến vài vấn đề đặc thù; vì thế nên có một cái nhìn tổng hợp.
Trước hết, chúng ta hãy lần lượt duyệt
qua những vấn đề liên quan đến đức tin trong Kinh thánh và lịch sử
Giáo hội; kế đó, chúng ta điểm qua những khía cạnh của đức tin được bàn
trong thần học nền tảng, thần học tín lý, thần học luân lý,
thần học tâm linh.
Trước khi vào đề, thiết tưởng nên lưu ý
đến việc dịch thuật: fides (fides tiếng Latinh, foi tiếng
Pháp; faith tiếng Anh) không nhất thiết có nghĩa là “đức tin”. Đôi khi
chỉ là “niềm tin, lòng tin, tín ngưỡng”, hoặc đơn thuần là: “tin tưởng, tín
thác”, nghĩa là những thái độ được áp dụng trong cuộc sống hằng ngày[1]. Đây mới chỉ là
một nhận xét sơ khởi, bởi vì sau này, thần học sẽ còn phân biệt nhiều hình thức
và cấp độ của tin: tự nhiên / siêu nhiên; hành vi / nhân đức; chủ thể /
khách thể, vv.
I. Kinh thánh
Ta cũng có thể khẳng định rằng thế giới
Kinh thánh cũng có một nét giống với thế giới Việt Nam về phương diện từ ngữ.
Thật vậy những từ ngữ nói đến “tin” được áp dụng trong đời sống thường nhật
trước khi nói đến những thực tại cao siêu.
A. Cựu ước
1/ Từ ngữ. Hai từ ngữ Do thái
thường dùng hơn cả là aman và batak.
a) Động từ Aman, xét theo nguyên
ngữ, có nghĩa là: đeo, mang (thí dụ mang đứa con trên tay: Ds 11,12; R 4,16;
2Sm 4,4); theo nghĩa bóng, aman là dựa vào ai, nương tựa, tin tưởng.
Do động từ aman mà có thán từ (hay trạng từ) amen, có nghĩa là:
đúng thế, chắc rồi, chính xác!
b) Batak nói lên ý tưởng: trông
cậy, tín thác. Như vậy, tin có nghĩa là: trông mong, hy vọng, tin tưởng.
Những từ ngữ này được dùng trong đời sống
hằng ngày, cách riêng trong bối cảnh của mối tương quan xã hội, nhưng ở đây
chúng ta giới hạn vào tương quan giữa con người với Thiên Chúa.
2/ Ý niệm
Những ý tưởng vừa gợi lên (nương tựa,
tín thác) của việc tin được kiện toàn dần dần trải qua tiến trình mạc khải
của Thiên Chúa cho Israel: thời tổ phụ Abraham, thời xuất hành của Môsê, thời
các ngôn sứ, thời các nhà hiền triết[2].
a) Lịch sử bắt đầu với ông Abraham.
Hồi ấy ông tin thờ các thần khác. Thế rồi, Thiên Chúa hiện ra với ông, hứa ban
cho ông một vùng đất màu mỡ và con cháu đông đúc (St 12,1). Lời hứa ấy
xem ra xa vời, nhưng ông vẫn tin vào Thiên Chúa (St 15,6), tin vào lời
hứa của Ngài. Ông tin rằng Thiên Chúa trung tín với lời hứa và có khả năng thực
hiện. Ông tín thác vào Ngài, và thậm chí sẵn sàng hy sinh đứa con của mình khi
Ngài đòi hỏi. Ông trở thành khuôn mẫu của một kẻ có lòng tin (Hc 44,20)
và tổ phụ của những kẻ có lòng tin (Rm 4,9-11).
b) Lịch sử mạc khải Cựu ước bước sang một
chặng quyết liệt khi Thiên Chúa can thiệp vào cuộc giải thoát dân Israel ra
khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Thiên Chúa của các tổ phụ đã thăm viếng đoàn dân đang
bị áp bức. Thiên Chúa gọi ông Môsê, và hứa sẽ ở với ông trong công cuộc
dẫn dắt Israel vào đất hứa (Xh 3,11-15). Ông Môsê đã đáp lại bằng niềm tin (Dt
11,23-29). Ông được đặt làm kẻ môi giới giữa Thiên Chúa với dân: ông thông
đạt chương trình của Chúa cho dân, và kêu gọi họ hãy tin vào Chúa, hết lòng tín
thác vào Ngài (Ds 14,11; Xh 19,9). Tin có nghĩa là vâng nghe (Đnl
9,23), đáp lại amen (Đnl 27,9-6) với lời Chúa, được biểu thị
qua giao ước. Như vậy, tin không chỉ là một lời thưa chấp thuận nhưng còn là
thái độ trung thành kéo dài qua năm tháng. Niềm tin thường được lặp lại qua
những cuộc tuyên xưng (Đnl 6,4-9; 26,5-9; Tv 78; 105): dựa trên việc kỳ
diệu của Thiên Chúa đã làm cũng như thâm tín quyền năng và lòng trung tín của
Ngài (Tv 136), dân Israel khẳng định quyết chí dành tất cả tâm trí để
yêu mến một mình Thiên Chúa mà thôi.
c) Tin có nghĩa là tín thác vào lời hứa;
tin có nghĩa là chấp nhận giao ước, và biểu lộ qua việc tuyên xưng. Các ngôn
sứ còn vạch ra những yêu sách khác của đức tin, khi đụng đến những hoàn
cảnh khác nhau của lịch sử.
- Hệ luận quan trọng của niềm tin vào
Thiên Chúa là từ bỏ các ngẫu tượng. Israel luôn bị cám dỗ chạy theo các vị thần
của các tôn giáo của dân láng giềng, nhất là khi niềm tin được gắn liền với
những phúc lộc trước mắt: tiền của, hoa màu ruộng đất, thắng lợi quân sự. Khi
thấy các dân lân bang được những thành quả ấy, Israel bị cám dỗ muốn chạy theo
các thần của họ (chẳng hạn thần Baal) vì nghĩ rằng các thần ấy “thiêng”
hơn là Giavê, Thiên Chúa của các tổ phụ. Các ngôn sứ không những tố cáo tội thờ
ngẫu tượng (Hs 2,7-15; Gr 2,5-13) bởi vì đó là đồ hư ảo (Gr 2,25),
mà cả việc cứu viện các cường quốc bởi vì làm như vậy là cậy dựa vào binh mã
nhân loại thay vì tin tưởng vào sự che chở của Thiên Chúa (Hs 1,7; Is 31,1).
Các ngôn sứ nhắc nhở dân Israel hãy bình tĩnh tín thác vào Thiên Chúa. Thiên
Chúa là đá tảng của dân (Is 44,8; 50,10), Đấng trung tín với lời hứa,
mạnh mẽ hơn các thần của Babylonia (Is 44,6; 43,8-12; Tv 115,7-11).
- Đức tin của dân Israel đã trải qua một
cuộc thử thách nặng nề khi họ chứng kiến cảnh tàn phá đền thờ và cảnh lưu đày
sang Babylonia. Các ngôn sứ giải thích rằng đây là một hình phạt về tội bất
trung với giao ước, đã được cảnh cáo nhiều lần. Không phải là Thiên Chúa bỏ rơi
Israel, nhưng là Israel đã bỏ Chúa, khi họ tìm sự nương tựa nơi các thế lực
nhân loại và ngay cả khi việc thờ phượng của họ rỗng tuếch. Dù nói gì đi nữa,
nếu có ai nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa trước thảm họa này thì cũng là điều dễ
hiểu. Thế nhưng trong hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng ấy, các ngôn sứ thời lưu đày
đã đào sâu hơn khía cạnh bền bỉ của niềm tin vào Thiên Chúa: tin không chỉ có
nghĩa là giữ vững lòng tin tưởng kể cả lúc gặp thử thách, nhưng tin còn có
nghĩa là hy vọng bất chấp mọi hoàn cảnh trái ngược. Thật vậy, giữa cảnh nước
mất nhà tan, các ngôn sứ loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đưa dân trở về quê hương,
sẽ tái thiết xứ sở. Để củng cố niềm tin tưởng ấy, các ngôn sứ nại đến chân lý
về sự tạo dựng: Thiên Chúa có quyền năng tạo dựng vạn vật từ hư vô, thì Ngài
cũng có dư sức để tái lập dân Israel hiện đang tản mát nơi đất khách quê người.
d) Các sách Khôn ngoan mở rộng đối
tượng của niềm hy vọng: người tín hữu tin tưởng rằng Thiên Chúa không chỉ hứa ban
thưởng những phúc lộc ở đời này (tài sản phong phú, con cháu đầy đàn),
nhưng nhất là những điều thiện ở đời sau. Vào giai đoạn cuối của Cựu ước, chúng
ta thấy thêm một chiều kích mới của đức tin: tin vào Thiên Chúa kể cả vào những
lúc bị thử thách, tựa như ông Giób, và thậm chí ngay cả khi người tín hữu bị
bách hại (2Mcb 7; Đn 12,2; Kn 2,3; 3,1-9).
Như vậy, quan niệm về niềm tin được tiến
triển dần dần: từ chỗ tín thác vào lời hứa, đến chỗ chấp nhận giao ước; từ việc
chấp nhận giao ước đến việc trung thành với giao ước; từ việc trung thành với
giao ước đến chỗ mở tầm nhìn đến những thực tại không thuộc thế giới này. Song
song với sự kiện toàn ý niệm là sự kiện toàn những tâm tình về phía con người:
từ chỗ tin tưởng vào một thần linh quyền năng, đến chỗ lắng nghe Lời Chúa,
tuyên xưng những kỳ công của Chúa, trung thành với Luật Chúa kể cả khi phải hy
sinh mạng sống.
B. Trong Tân ước
Xét về từ ngữ, Tân ước đỡ phức tạp hơn,
bởi vì thường chú trọng vào danh từ pistis[3]. Tuy nhiên, xét về nội dung thì
phong phú hơn Cựu ước. Trong Cựu ước, tin là tín thác vào Thiên Chúa hoạt động
trong lịch sử của dân tộc. Trong Tân ước, sự can thiệp của Thiên Chúa dồn vào
thân thế và công trình của đức Kitô. Tin bao gồm nhiều khía cạnh:
- Tin có nghĩa là chấp nhận sứ điệp mà
đức Kitô mang lại, đó là ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho nhân loại qua cái
chết và phục sinh của đức Giêsu. Tuy đó là một biến cố lịch sử nhưng nó được
diễn tả thành sứ điệp, vì thế nó bao hàm khía cạnh đạo lý. Tin là một hành vi
có chiều kích tri thức: chấp nhận sứ điệp được rao giảng qua ngôn ngữ và nếp
sống.
- Tuy nhiên, tin không chỉ giới hạn vào
lãnh vực hiểu biết. Tin đòi hỏi sự tuân phục, tín thác vào tình yêu của Thiên
Chúa được biểu lộ nơi việc trao ban Con của Ngài. Tin cũng kèm theo một cuộc
thay đổi não trạng và nếp sống.
Đó mới chỉ là những nét khái quát. Mỗi
tác giả Tân ước khai triển một vài khía cạnh đặc thù tùy theo nhu cầu của mỗi
giáo đoàn cụ thể.
1/ Trong Tin mừng nhất lãm, tin có
ba nghĩa: tin tưởng vào quyền năng của đức Giêsu (x. Mc 2,5; 5,34); chấp
nhận Tin mừng mà đức Giêsu rao giảng (Mc 1,15; 16,16.17); chấp nhận
chính đức Giêsu.
a) Tin có nghĩa là tín thác vào lòng tốt
và quyền năng của đức Giêsu. Điều này được nêu bật nơi thánh Marcô. Tin là điều
kiện tiên quyết để Chúa làm phép lạ: họ phải tin tưởng Người. Người không thể
làm phép lạ nào ở Nazareth bởi vì dân thiếu lòng tin (Mc 6,5-6). Ngược
lại, Người nói với ông Giairô đã mất người con gái: “Đừng sợ; chỉ cần tin
thôi” (Mc 5,36).
b) Tin có nghĩa là chấp nhận Tin mừng do
đức Giêsu rao giảng. Điều này được thấy ngay từ đầu Tin mừng Marcô: “Thời
gian đã viên mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần kề; hãy thống hối và tin vào
Tin mừng” (Mc 1,15); cũng như vào lúc kết thúc cuốn sách: “Hãy ra đi
khắp thế giới, rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo. Ai tin và lãnh phép rửa thì
sẽ được cứu rỗi” (Mc 16,15-16). Tin vào Tin mừng có nghĩa là chấp nhận rằng
Thiên Chúa đã can thiệp vào thế giới nơi bản thân, lời nói và lời giảng của đức
Giêsu. Vì thế, ai muốn vào vương quốc Thiên Chúa thì phải chấp nhận những điều
kiện mà đức Giêsu đặt ra. Điều này đòi hỏi một cuộc hoán cải, thay đổi não trạng.
c) Tin có nghĩa là chấp nhận bản thân đức
Giêsu. Đây là bước thứ ba: từ chỗ chấp nhận lời giảng về đức Giêsu đến chỗ chấp
nhận bản thân Người: Người là Chủ tể (Kyrios). Điều này xảy ra sau cuộc
Phục sinh, và được nhấn mạnh trong sách Tông đồ công vụ (x.các kerygma).
Dù sao, thánh Luca diễn tả thái độ này qua những hành động cụ thể: đi theo đức
Kitô, vác thập giá (Lc 9,23), làm chứng và tuyên xưng (Lc 12,8-9).
2/ Thánh Gioan
Tin chiếm một địa vị nổi bật trong các
tác phẩm của thánh Gioan. Động từ pisteuein (tin) được dùng 98 lần trong
Tin mừng thứ bốn và 9 lần trong các thư ; còn danh từ pistis chỉ được
dùng 1 lần trong 1Ga 5,4 (“Đây là điều làm cho chúng ta thắng được
thế gian: lòng tin của chúng ta”). Xem ra thánh Gioan quan tâm đến lối sống
hơn là đến đạo lý. Tuy vậy, ở cuối Tin mừng, tác giả viết như sau: “Những
điều này đã được ghi chép ngõ hầu anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con
Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống đời đời” (20,31). Chúng ta hãy
tìm hiểu ba điểm liên quan đến: đối tượng, bản chất, hiệu quả của việc tin.
a) Đối tượng: tin vào Thiên Chúa và tin
vào đức Giêsu (8,31.45.46; 10,37.38; 14.11). Đức Giêsu là Đấng Kitô (11,27;
20,31), kẻ được Chúa Cha sai đến (11,42; 17,8.21), là Con Thiên Chúa
(20,31), kẻ từ Chúa Cha mà đến (16,27.30). Chúa Cha với đức Giêsu
là một (10,30; 17,21).
b) Bản chất: Thánh Gioan quan niệm “tin”
như là một tiến trình gặp gỡ. Cùng với động từ “tin”, tác giả còn dùng những
động từ đồng nghĩa tựa như: “đến với” (5,40; 6,35.44ff.65; 7,37), “tiếp
đón” (1,12; 5,43), “yêu mến” (8,42; 14,15.21.23f.28; 16,27). Tin
là một tiến trình năng động: nó tăng trưởng tiệm tiến, từ những bước khởi đầu
đến chỗ hoàn bị, từ chỗ đón nhận đức Giêsu vì phép lạ đến chỗ chấp nhận Người
mà không cần phép lạ. Vài thí dụ: 4,46-53 (sĩ quan cận vệ, động từ tin được
nói đến ở câu 50 và 53, với hai cấp độ); 4,39-42 (người dân Samaria tin
vì nghe lời thuật của người phụ nữ và tin vì nghe lời của Chúa); chương 9 (người
mù: so sánh câu17 với câu 38).
c) Hiệu quả. Tin liên quan đến chuyện
sinh tử: số phận vĩnh cửu của con người tùy thuộc vào việc tin hay không tin: “Ai
tin thì sẽ không bị xét xử, ai không tin thì đã bị xét xử rồi” (3,18). Ai
tin vào Con thì được sự sống hằng hữu (3,36; 6,40.47; 20,31). Tin dẫn
đến sự sống vĩnh cửu; không tin dẫn tới hư vong. Tin mang tính quyết định đến
số phận vĩnh hằng. Tin mở đường đến hạnh phúc đời đời; nhờ tin mà chúng ta biết
Chúa, ở lại trong đức Kitô.
Ngoài ra, “tin” và “yêu” liên kết với
nhau: tin dẫn đến yêu; nhưng tin cũng là kết quả của yêu, bởi vì tin là kết quả
của ơn thánh Chúa. Tin là một hồng ân.
3/ Thánh Phaolô
Tin là vâng theo lời Chúa được biết nhờ
việc rao giảng (Rm 10,17; 16,26; 1,5; 2 Cr 9,13; 10,5; 2 Tx 1,8). Ông
Abraham là tấm gương của đức tin bởi vì ông vâng theo lời Chúa nói cho ông. Tin
là một tâm tư nội tâm nhưng cũng bao hàm việc tuyên xưng bên ngoài miệng nữa (Rm
10,9).
Lời giảng và lời tuyên xưng đều có một
nội dung: “Đức Giêsu là Chúa; Người đã chịu chết trên thập giá vì tội chúng
ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người chỗi dậy vào ngày thứ ba” (1Cr 15,3; xc.1Tx
l,9t; Rm 10,4; Cl 2,12; Ep 1,20; Gl 1,1; Rm 4,25, vv.). Tin mừng là đức
Kitô. Phàm ai tin vào Thiên Chúa thì cũng chấp nhận kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa được thực hiện nơi đức Kitô. Vì thế Đức Kitô là đối tượng của đức tin.
Đức tin là khởi đầu của tiến trình cứu độ, được đặt tên là “ơn được nên
công chính” (công chính hóa). Tuy nhiên sự nhấn mạnh đến chỗ “duy chỉ
đức tin mới làm nên công chính chứ không vì giữ luật” (Rm 3,28) đã đưa
đến những giải thích cực đoan khiến cho thánh Giacôbê phải lên tiếng (Gc
2,14-16; xem thêm Mt 7,21). Thực ra trong các lá thư, ở phần khuyến thiện,
thánh Tông đồ đã nói nhiều đến việc uốn nắn cuộc đời sao cho phù hợp với Tin
mừng.
Người ta nhận thấy rằng trong những thư
đầu tiên, thánh Phaolô nhấn mạnh đến quyền năng và sức mạnh của Lời Chúa hay
của Tin mừng, nhưng trong những thư mục tử, Người bận tâm đến “đạo lý” và
khuyên răn Timôthê hãy “giữ gìn đạo lý” (1Tm 6,20; 2 Tm 1,14), “đạo lý
lành mạnh” (1Tm 1,10; 2Tm 4,3; Tt 1,9; 2,1). Đây là một “gia sản” (depositum:
paratheke) được ủy thác và cần phải giữ gìn cẩn thận.
Tuy ngày nay các học giả không coi thánh
Phaolô là người viết Thư gửi người Hipri, nhưng tư tưởng của nó gần gũi
với thánh Tông đồ. Tác giả dành trọn chương 11 để trưng bày mẫu gương của các
chứng nhân đức tin, với lời mở đầu như sau: “Đức tin là bảo đảm cho những
điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Thánh Tôma
Aquinô đã nhận thấy nơi đây một định nghĩa cho nhân đức tin (Summa
Theologica, II-II, q.4.a.1), gồm bởi hai yếu tố:
- đối thể: những điều tương lai mà ta
trông mong;
- chủ thể: xác tín, kiên trì[4].
Tóm lại, pistis trong Tân ước là
một thực thể phong phú bao hàm nhiều khía cạnh.
- Khía cạnh tri thức: hiểu biết về bản
thân và sứ điệp của đức Giêsu.
- Khía cạnh tin tưởng vào sự chân thành
của Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta nơi đức Kitô. Sự tín thác kèm theo niềm hy
vọng rằng những lời Chúa hứa sẽ được thực hiện (Dt 11,9-11; Rm 4,17-20; 1Pr
1,5-9). Hy vọng phát sinh sự kiên trì và chung thủy (2Tm 4,7; Rm 1,5; Gl
5,6).
- Hiệu quả: đức tin mang lại đời sống mới
(ơn trở nên công chính; thụ tạo mới).
Khi đối chiếu giữa quan niệm “tin” trong
Cựu ước và Tân ước, các tác giả nhận thấy sự liên tục và sự mới mẻ. Sự liên tục
ở điểm là tin bao hàm thái độ tín thác, tin tưởng vào Thiên Chúa can thiệp trong
lịch sử; sự mới mẻ ở chỗ đối tượng của sự can thiệp của Thiên Chúa được biểu lộ
cách cụ thể nơi đức Giêsu Kitô: kể từ nay, ai tin vào Thiên Chúa thì cũng phải
tin vào đức Giêsu Kitô. Như vậy trong Tân ước, tin mang thêm một chiều kích, đó
là chấp nhận Đức Kitô. Điều trớ trêu là khi đọc Tin mừng, ta thấy những người
không tin đức Kitô là những người Do thái; họ không phải là người vô thần, và
phần lớn rất trung thành với Luật Mosê. Trong bối cảnh ấy, ta dễ hiểu vì sao
Tân ước nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức tin, tin vào lời giảng của chính
đức Giêsu và lời giảng của Hội thánh. Đức tin cần thiết để được cứu rỗi. Đức
Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chứng minh sứ mệnh của mình, nhưng phép lạ chưa
đủ để tin. Cần thái độ cởi mở, cũng như hợp tác với ân sủng. Ngoài ra, vài vấn
nạn khác cũng được nêu lên trong cộng đoàn tiên khởi: tương quan giữa tin và
biết, tin và thấy, tin và làm, mà thánh Phaolô, thánh Gioan và thánh Giacobê
tìm cách trả lời.
(Còn Tiếp)
[1] Trong tiếng Latinh, ngoài danh từ fides
(và những từ cùng gốc fidelis, fidelitas) còn có động từ credere
(và những từ ngữ cùng gốc: credibilis, credibilitas). Một cách tương tự
như vậy tiếng Pháp có danh từ foi và động từ croire (từ đó: croyance),
thêm vào những từ gốc Latinh: crédibilité, fidèle, fidélité. - Trong
tiếng Anh, danh từ là faith (với các từ ngữ liên hệ: faithful,
faithfulness), còn hành vi được gọi là to believe (từ đó có: belief,
believer); ngoài ra còn có những từ gốc Latinh: credit, credentials,
fidelity.Trong tiếng Việt, “tin” hoặc “tín” cũng được ghép
với nhiều từ khác: tin tưởng, tin cậy, tín ngưỡng, tín thác, trung tín, tín
nhiệm, vv.
[2] J. Duplacy, “Fede” in: Xavier Leon
Dufour (dir.), Dizionario di Teologia Biblica, Marietti Torino 1971,
col.380-385.
[3] Thật ra, batak được chuyển
sang tiếng Hy-lạp là elpìs, elpìzo, pèpoitha (và sang
tiếng Latinh Vulgata là spes, sperare, confido); còn aman
là pistis, pistúein, alétheia (Latinh: fides, credere,
veritas). Trong Tân ước danh từ pistis xuất hiện 243 lần và động
từ pisteúein 241 lần.
[4] Về ý nghĩa đoạn văn này, xem thông
điệp Spe salvi của đức thánh cha Bênêđictô XVI, số 7.